SÁNG TÁC 21 MINH HỌA: VŨ XUÂN TIẾN Mẹ tôi khẽ cười trả lời: - Thế chú thím muốn xin đứa nào? Thằng lớn hay thằng bé? (Ý nói tôi và thằng em kế lúc ấy mới lên sáu). - Nếu hai bác đồng ý thì cho em xin thằng cu lớn! Nghe thím nói vậy, mẹ tôi giãy nảy: - Trời, không được đâu, thằng lớn phải ở nhà phụ giúp bố mẹ, cơm nước lợn gà, chăn trâu, đánh dậm, bắt cua... Cháu mà đi thì tôi cụt tay à! Thím có vẻ hơi tiếc rẻ, rồi khẽ nói: - Vâng, thế cho em thằng bé cũng được! - Thế xem hôm nào ngày đẹp và hợp tuổi thì đón cháu về! Chú thím mừng vui ra mặt. Coi như đã thành công được một nửa. Giờ chỉ còn việc dỗ dành sao cho cậu chàng đồng ý, vui vẻ về làm con nuôi chú thím. Từ khi chú thím về sống với nhau đã hơn chục năm. Thời gian cứ lặng lẽ trôi trong nỗi buồn cô quạnh. Đã có bao đêm thím trăn trở dằn vặt, khát khao có một đứa con, đó là niềm hạnh phúc nhỏ nhoi giản dị của một người đàn bà mà thím tôi không có được. Cùng là phụ nữ, chắc mẹ tôi cũng đồng cảm với thím nỗi niềm. Được cái mẹ tôi cũng khéo mồm dỗ dành cậu em, nào là sang nhà chú thím được cưng chiều, đi chợ về có nhiều quà, không phải tranh nhau với em. Nào là được ăn cơm trắng với thịt kho, không phải ăn cơm độn như ở nhà... Xem chừng cậu chàng cũng ưng cái bụng. “Từ nhà sang chú thím chỉ hơn trăm mét, nên lúc nào buồn thì chạy về bố mẹ cũng được…” Rồi ngày ấy cũng đến, thím mua một túi nặng nào bánh, nào hoa quả trái cây cho anh em chúng tôi. Thím chia quà cho các cháu xong rồi xin phép cõng thằng em về. Chả biết sao, thằng bé lúc ở nhà khỏe mạnh, chạy nhảy nghịch ngợm phá phách, tranh ăn như lợn con, đến khi về nhà chú thím cứ ốm quặt quẹo. Đến bữa nó chỉ ngồi nhìn, mặc cho chú thím dỗ dành, nó chỉ đụng mấy thìa. Cơm trắng ăn với thịt lợn kho, ở nhà có mà mơ cũng không thấy. Thế mà nó dửng dưng, cái miệng nó đắng ngắt, ăn không thấy ngon, cái mặt ỉu xìu. Thím mua quà bánh để đầy đầu giường, nó cũng chẳng thèm bỏ mắt. Được khoảng một tuần, tình hình có vẻ càng xấu đi, thằng bé cứ ốm quặt. Chú thím làm đủ mọi cách, cưng chiều hết mức, chỉ mong nó vui, nó khỏe mạnh và ở với chú thím như một đứa con. Chú thím không mong mỏi gì hơn. Thằng cu cứ ủ dột như tàu lá héo. Mặt nó buồn rười rượi. Thím lại càng khổ tâm. Thằng bé buồn một, thím tôi buồn mười. Thím chỉ biết ngửa mặt kêu trời. Chú thím có ăn ở thất đức, có làm ác bao giờ đâu mà sao trời đày thím như vậy? Chiến tranh đã lùi xa, vết thương trên thịt da có thể đã lành, nhưng những vết thương lòng khó có thể nguôi ngoai. Sau một tuần không thể níu kéo thằng bé con ở lại, thím phải dằn lòng cõng cháu mang trả bố mẹ tôi. Thật kì lạ, như có sự chi phối của một sức mạnh tâm linh nào đó. Thằng cu lại khỏe mạnh, chạy nhảy nghịch ngợm như thường. Như chưa từng có chuyện gì xảy ra với nó trong một tuần xa nhà, đi làm con nuôi hụt nhà chú thím. Sau cái đận ấy, thím đành chấp nhận coi như số phận đã an bài. Không còn ý tưởng đi xin con nuôi nữa. *** Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chúng tôi cứ lớn dần lên trong khó khăn đói khát. Cơn bĩ cực rồi cũng qua đi. Cuộc sống dần thay đổi cùng với sự phát triển của đất nước. Một chiều mưa Tây Nguyên, nhận được điện thím tôi đã trở về với ông bà tiên tổ, trở về với đất mẹ quê hương. Tôi tất tả đặt vé máy bay để sớm mai trở về đưa tiễn thím. Cầu mong cho thím về miền cực lạc hoan hỉ trong một thế giới khác. Thím sẽ đầu thai một kiếp khác, một cuộc sống mới không còn khổ đau bất hạnh, truân chuyên. Dù thế nào, thím tôi cũng đã có một thời con gái thật là đẹp, với sức trẻ thanh xuân dành hết cho đất nước. Với riêng tôi, thím là người mẹ thứ hai. 06/08/2024 Đ.N.H ...Khi lúa trên đồng đã gặt xong, thóc đã vào bồ, ngoài đồng chỉ còn lúp xúp những mô rạ được úp ngược gốc lên. Trông xa như những quân cờ trên bàn cờ, rất thẳng hàng, có điều những quân cờ này có hình nón. Ngày nay không còn những hình ảnh đó nữa vì người ta đã dùng máy gặt. Hồi đó tôi tầm 13-14 tuổi cũng theo chị ra đồng chống rạ. Trông thì đơn giản vậy mà phải tập mãi mới biết làm. Thoạt đầu, người ta sẽ chụm phần gốc của mô rạ lại, sao cho phần ngọn xòe ra hình cái quạt. Sau đó dùng hai tay và kết hợp cả chân nữa, đỡ cho mô rạ đứng lên thành hình một cái nón úp xuống đất, sao cho phần chân choãi đều ra xung quanh. Nếu chống không khéo để lệch một bên là đổ ngay. Cứ để như vậy khoảng 2-3 tuần, rạ khô đi, lúc ấy đồng cũng không còn nước nữa. Người ta sẽ bó lại thành những bó lớn, dùng đòn càn xỏ vào hai bó và gánh về nhà. Thường cách này chỉ dùng cho vụ mùa vì tháng mười đã hết mùa mưa, sắp ghé sang đông nên thời tiết sẽ khô hanh, tiện cho việc thu gom rơm rạ. Lúc này, các cánh đồng trũng - chỉ cấy được một vụ chiêm, quê tôi gọi là cánh triều - nước đã rút cạn. Tầm tháng 7-8 âm lịch mưa nhiều, các cánh triều ngập trắng băng là nước. Chỉ còn thấp thoáng vài bụi cây gáo còn thò ngọn lên. Có những năm mưa sớm, lúa chiêm còn chưa kịp gặt xong, nước đã ngập mênh mông. Các nhà lại hối hả làm bè chuối để đi gặt. Nước đã ngập lút ngọn lúa, phải dầm mình xuống nước, dùng liềm quơ mò. Được nắm lúa nào thì đặt lên bè chuối kéo về bờ cao rồi gánh về nhà. Nếu không gặt kịp, lúa ngâm trong nước mấy ngày sẽ nẩy mầm hết, thế là công toi mấy tháng giời chăm bón. Đi gặt mò thế thật vất vả nhưng cũng vui đáo để. Nhiều khi đi gặt bất chợt gặp nguyên một ổ trứng “đâm đấm” (gà đồng) thật là thú vị. Mang về luộc. Loài chim đâm đấm này chỉ ở ngoài đồng, đến mùa đẻ trứng chúng vận những cây lúa lại làm thành một cái tổ như cái ổ gà nhỏ và đẻ trứng vào đó. Đó là một loài chim lớn, to gần bằng con gà, chân cao thích hợp cho việc lội nước. Trên đầu nó có mào màu đỏ tươi rất đẹp. Mùa sinh sản chúng kết đôi và gọi nhau bằng những tiếng “túc, túc...” nghe rất vui tai. Tầm giữa tháng mười âm lịch, khi nước rút cạn, cũng là mùa lũ trẻ trâu chúng tôi lội triều, bắt cua, đặc biệt là bắt cà ra. Quê tôi gọi cà ra, là một loài cua lớn giống như cua bể, mai nó to bằng cái bát ăn cơm, càng của nó to bằng ngón chân cái. Thịt rất thơm ngon. Ngày nay giống này không còn nữa. Mà ngay cả cua cá trên đồng cũng cực hiếm, không như ngày xưa. Loài cà ra này thường sống ở các con sông lớn, khi mùa lũ nước ngập đồng, chúng mò lên các bờ đất lúc này đã ngập để đào hang, làm tổ. Chúng tôi lội qua sông Ba Tòa sang đồng Thị Đức. Lúc này nước chỉ còn đến bụng. Lại nói về sông Ba Tòa, nó là một con sông chảy ngoằn ngoèo trong một khu đồng trũng rộng lớn của làng Thị Đức, tiếp giáp phía nam của cánh đồng làng Gôi quê tôi. Bọn trẻ trâu cứ nghe nói sông Ba Tòa là thấy sợ vì chúng nghe người lớn đồn rằng ở đó lắm ma. Lại giáp với mả Đông Keo, nghĩa trang của làng tôi nữa nên khu vực ấy càng hoang vắng. Mùa mưa nước ngập trắng mênh mông, đứng trên bờ bên này nhìn về phía làng Thị Đức chỉ thấy lũy tre xa xa. Nhìn một vùng nước mênh mông như biển, chả có đứa trẻ trâu nào mà không sợ. Chỉ biết tên làng là Thị Đức, chúng tôi chưa bao giờ đặt chân đến đó. Chỉ biết đó là quê của thầy Duật, dạy chúng tôi hồi lớp 3, lớp 4. Mà nghe nói, thầy còn dạy cả bố mẹ chúng tôi vì khi thầy dạy chúng tôi, thầy đã già bạc cả tóc rồi. Về sau khi lớn lên tôi còn biết Thị Đức là quê của nhà văn Tô Đức Chiêu. Năm 1986 ông có đăng một bài tản văn rất hay, nói về làng Thị Đức quê mình trên báo Quân đội Nhân Dân với tựa đề “Chân Làng”. Khi nước rút cạn, đồng chỉ còn lơ thơ những đám rong rêu, là nơi trú ngụ lý tưởng của bọn cua đồng. Nhưng đã lội sang bên này, mục tiêu của bọn chúng tôi chính là những hang cà ra đầy hấp dẫn. Cứ lội dọc theo bờ ruộng, mắt dán vào mé bờ sát mép nước, lâu lâu bắt gặp một cửa hang to như cái tô đựng canh, bên ngoài được quây bằng một vùng đất do cà ra đào hang tha ra ngoài. Mắt thằng nào thằng nấy sáng lên. Nhưng để bắt được cà ra không hề đơn giản. Vì hang cà ra sâu lắm, ít nhất cũng phải mét rưỡi, ăn xiên vào trong bờ. Bọn tôi có sáng kiến là đào chặn trước chứ không đào lần lượt. Được cái đất ruộng triều ngâm nước lâu ngày nên cũng dễ đào. Hì hục mãi rồi cũng đến lúc đụng vào chân cà ra, thằng nào thằng nấy lấm như trâu đằm. Để lôi được cà ra ra khỏi hang cũng phải thật khéo, phải lựa và cực cảnh giác với đôi càng của nó với những cú kẹp chí mạng. Tôi cũng từng bị cà ra cắp cho những cú rụng rời chân tay, đau và buốt đến tái xanh cả mặt mày. Lúc ấy chỉ còn một cách cố chịu đau, đập mạnh vào cái tay đang bị cắp, bị tác động một lực lớn bất ngờ, con vật mới chịu nhả ra. Một buổi chỉ cần đào được 3-4 con đã là tuyệt vời rồi, mỗi con cỡ bự cũng tầm 3-4 lạng. Cà ra luộc hoặc nấu canh rau đay thì khỏi phải nói, ngon hơn bất cứ sơn hào hải vị nào. Đ.N.H KÍ ỨC CÁNH ĐỒNG Truyïnå ngùnæ cuaã ĐỖ NGỌC HANH n SÕ 244+245+246+247
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==