Tiền Phong số 244

Hồi bé, cứ mỗi lần trông thấy tôi, thím lại cười, xoa đầu tôi rồi chửi yêu: - Mả tổ mày, cái thằng Miếu Môn! Chả hiểu vì sao thím lại gọi tôi bằng cái biệt danh ấy. Tôi lớn lên, học xong cấp ba, đi bộ đội. Sau khi xuất ngũ, tôi lại xách ba lô lên đường vào Tây Nguyên lập nghiệp. Cứ xa quê biền biệt. Mấy chục năm, các con tôi cũng đã lớn, học xong đại học rồi đi làm. Lúc này tôi mới có điều kiện về thăm quê thường xuyên hơn. Bây giờ thím cũng đã già, ở vào cái tuổi gần đất xa trời. Tôi đến thăm chú thím. Thím mừng lắm khi biết gia đình tôi dù không giàu nhưng các con được học hành tử tế và có nghề nghiệp đàng hoàng. Thím vẫn cái giọng chửi yêu ngày nào: “Mả tổ mày cái thằng Miếu Môn”. Tôi mới hỏi ngọn ngành đầu đuôi về cái biệt danh ấy. Thím cứ cười rũ ra, rồi thủng thẳng kể... - Cái đận tao với mẹ mày lên thăm đơn vị bố mày đóng quân ở Miếu Môn. Sau đợt ấy về thì mẹ mày có chửa và... tòi ra mày đấy! - Thật thế hả thím? - Tôi tròn mắt - Cháu có biết đâu, chẳng nghe mẹ cháu kể bao giờ. “Giời ạ, trên trời thì máy bay nó ném bom, dưới đất thì cầu đường bị hư hỏng nặng, hậu quả của những trận ném bom phá hoại của giặc Mỹ, mà dắt díu nhau đi. Chuyển xe mấy bận, có khi phải lội bộ, từ nhà lên đơn vị có hơn trăm cây mà đi mất ngày rưỡi mới đến nơi, thì mày biết khổ như thế nào. Đâu có dễ dàng như bây giờ. Bố mày đóng quân ở Miếu Môn, Hà Tây. Sau thời gian huấn luyện, đơn vị chuẩn bị hành quân vào Nam chiến đấu. Nhà chỉ có một mình bố mày là con trai, nhưng thời ấy cả làng cả xã, trai tráng đều đi bộ đội hết, chỉ trừ những người tàn tật, đui què mẻ sứt mới ở lại. Thanh niên nô nức lên đường tòng quân…”. Bố tôi cũng trong dòng người ra trận. Ngày bố tôi nhập ngũ, bà nội khóc nhiều lắm, có dễ đến cả tháng bà mới nguôi ngoai dần. Được tin con trai sắp lên đường vào Nam, bà chạy đôn chạy đáo, động viên con dâu khăn gói lên đơn vị thăm chồng. Có lẽ trong thâm tâm bà cũng muốn có một đứa cháu, khi con trai dấn thân vào nơi hòn tên mũi đạn, chả biết sống chết ra sao. Sau đợt lên thăm chồng trở về của con dâu, bà nội cứ để ý xem con dâu có tín hiệu gì đáng mừng không. Thật may mắn hạnh phúc cho bà và cả nhà, trời cũng rủ lòng thương cho cảnh mẹ góa con côi. Cuối năm ấy, cái thằng tôi ra đời... Lại kể về thím tôi, gọi là thím nhưng bà hơn mẹ tôi vài tuổi. Là thím họ. Nói một cách dễ hiểu thì bố tôi và chú cùng chung một ông nội. Thời con gái, thím đẹp có tiếng trong làng. Dáng người thon thả, thắt đáy lưng ong. Mái tóc dày, đen nhánh, dài qua gấu áo. Khuôn mặt tròn xinh với cái cổ ba ngấn mịn màng màu trắng cánh huệ. Bao trai tráng trong làng theo đuổi nhưng thím chưa yêu ai. Mười bảy tuổi, cái tuổi đẹp nhất của người thiếu nữ, thím tình nguyện đi thanh niên xung phong cùng mấy chị em trong làng. Mấy năm trời ở Trường Sơn, đơn vị của thím làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông cho những đoàn xe ra mặt trận trên những trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ. Gian khổ hy sinh không gì tả cho hết. Những cô gái miền quê đã quen nắng mưa vất vả trên đồng ruộng, đã vượt qua tất cả. Nhưng đau xót nhất là khi chôn cất những đồng đội nằm xuống giữa tuổi hai mươi chứa chan hy vọng và tràn đầy nhựa sống. Những trận sốt rét ác tính chết đi sống lại, tóc rụng thưa gần hết. Những trận bom rải thảm kinh hoàng của B52 Mỹ. Và nguy hiểm nhất là chất độc hóa học giặc thả xuống làm trụi cả những khu rừng rộng lớn. Những con suối đầu nguồn của Trường Sơn, trong trẻo là thế, giờ đây nhiễm chất dioxin, hậu quả của những đợt rải chất độc da cam hủy diệt, đó chính là nguồn gieo rắc những mầm bệnh quái ác cho con người, di chứng dai dẳng đến mấy thế hệ. Ngày ở chiến trường về, người làng không ai nhận ra nổi cô gái đẹp, duyên dáng trẻ trung khi xưa. Thím tôi trở về với bộ dạng tiều tụy, xanh xao. Người teo tóp còn có 36kg, mặt bủng da chì, mái tóc rụng gần hết, đôi môi tái thâm dấu vết của những trận sốt rét kinh hoàng của rừng già Trường Sơn. Rồi từ đó, thím cứ lặng lẽ sống, còn đâu một thuở con gái hồn nhiên ngây thơ trong sáng. Thím nhận về mình bao điều thiệt thòi ngang trái. Những gì đẹp đẽ phơi phới của tuổi xuân, chiến tranh đã vĩnh viễn cướp đi. Trở thành bà cô quá lứa lỡ thì, gần ba mươi tuổi thím mới chắp nối chuyện tình cảm với chú tôi, một thương binh chống Pháp. Trở về làng với đôi nạng gỗ trên tay. Một chân chú gửi lại chiến trường Điện Biên Phủ. Một mối tình hơi muộn màng nhưng cũng khá là đẹp đôi. Nhưng thím tôi không thể có con. *** Trong khi đó, mỗi lần bố tôi về phép, trong nhà lại thêm một nhân khẩu. Bố trở về đơn vị, mẹ ở nhà chửa đẻ một mình. Lần lượt bốn thằng cu trứng gà trứng vịt ra đời. Khỏi phải nói nỗi vất vả của mẹ khi nuôi một đàn con trong điều kiện khó khăn của đất nước trong chiến tranh. Chồng cứ đi biền biệt chẳng hẹn ngày về. Mọi công to việc lớn đều dồn vào đôi vai gầy guộc của mẹ. Sau ngày thống nhất, bố phục viên trở về. Cuộc sống cũng bớt khó khăn hơn. Lúc này tôi cũng lên cấp hai, vừa đi học vừa giúp đỡ bố mẹ đủ thứ việc. Một hôm, chú thím sang nhà thưa chuyện với bố mẹ tôi: - Vợ chồng em sang thưa chuyện với hai bác. Như hai bác đã biết, chúng em không thể có con. Mà hai bác thì đông quá. Thôi thì sẩy vai xuống cánh, lọt sàng xuống nia. Đâu cũng máu mủ ruột rà, hai bác cho em xin một đứa về làm con em. Em hứa sẽ yêu thương, dạy bảo, nuôi nấng cháu chu đáo để cháu lớn lên thành người tốt. Hình như hai bà đã nhấm nháy với nhau từ trước rồi, nên khi nghe chú thím trình bày, mẹ tôi cũng không bất ngờ, ngạc nhiên lắm. 20 SÁNG TÁC MINH HỌA: HUỲNH TY THÍM TÔI Truyïnå ngùnæ cuaã ĐỖ NGỌC HANH Đỗ Ngọc Hanh là một cựu binh chiến trường K, một “lính Tây Nam”. Nếu không có chiến tranh, và nếu thêm cơ duyên, thì ông sẽ sớm trở thành nhà văn. Tôi tin thế, khi đọc những dòng buốt ruột lần theo ký ức của một người dường như ít quên điều gì trong một phần dài cuộc đời nhiều vật vã, mất mát nhưng cũng không thiếu niềm vui. Tác giả Đỗ Ngọc Hanh quê xứ Bắc, định cư ở Lâm Hà, Lâm Đồng với nghề trồng và chế biến cà phê. Lối viết chân chất, gần với tự thuật của Đỗ Ngọc Hanh giúp ta nhận chân đời sống theo cách bộc trực nhất. Một đời sống cần lắm hòa bình và lòng yêu thương. L.A.H n SÕ 244+245+246+247

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==