Tiền Phong số 242

13 TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG n Thứ Năm n Ngày 29/8/2024 LƯU Ý RỦI RO QUẢN TRỊ, THANH KHOẢN Báo cáo về ngành ngân hàng mới đây của Công ty CP Xếp hạng tín nhiệm đầu tư Việt Nam (VIS Rating) chỉ ra, mặc dù có những yếu tố hỗ trợ tích cực, các ngân hàng vẫn cần đặc biệt chú trọng đến hai rủi ro quan trọng là quản trị và thanh khoản. Nửa đầu năm 2024, VIS Rating đã công bố kết quả xếp hạng tổ chức phát hành dài hạn lần đầu cho 3 ngân hàng tư nhân, gồm: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong (TPBank) (AA-), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông (OCB) (A+) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Lộc Phát (LPBank) (A+), với triển vọng ổn định. Năng lực độc lập của TPBank được đánh giá mạnh hơn so với hai ngân hàng còn lại nhờ cấu trúc nguồn vốn và khả năng sinh lời mạnh mẽ. TPBank thành công trong việc áp dụng chuyển đổi số để mở rộng tập khách hàng và nguồn tiền gửi cốt lõi, từ đó giúp ngân hàng có chi phí vốn thấp và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân tốt hơn trung bình ngành. Trong khi đó, OCB có quy mô vốn ở mức mạnh giúp bù đắp một phần rủi ro tài sản. “Xếp hạng của 3 ngân hàng trên cũng phản ánh kỳ vọng của chúng tôi về khả năng hỗ trợ ở mức trung bình của Chính phủ trong thời điểm cần thiết. Hỗ trợ từ Chính phủ là một yếu tố đặc thù dành cho các ngân hàng khi so sánh với xếp hạng của các tổ chức phi ngân hàng và doanh nghiệp tư nhân khác, do tầm quan trọng của các ngân hàng đối với nền kinh tế Việt Nam cũng như những ảnh hưởng tới thị trường tài chính và nền kinh tế khi một ngân hàng gặp vấn đề”, chuyên gia của VIS Rating chỉ ra. Trong xếp hạng tín nhiệm ngân hàng, VIS Rating lưu ý hai rủi ro là quản trị và thanh khoản. Sự việc xảy ra năm 2022 với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB) là một ví dụ, khi việc rút tiền gửi xảy ra hàng loạt, thanh khoản trở nên căng thẳng. Còn rủi ro quản trị phát sinh khi các cá nhân nắm giữ vị trí quan trọng trong ngân hàng, tập đoàn - ví dụ như cổ đông hoặc thành viên Hội đồng quản trị, từ đó có thể chi phối hoạt động ngân hàng để phục vụ mục đích cá nhân. Những mối liên kết chặt chẽ này gây ra rủi ro hoạt động và khiến ngân hàng dễ bị tổn thương hơn khi các tập đoàn lớn gặp vấn đề, tác động tới tâm lý thị trường và tạo nên các đợt rút tiền gửi hàng loạt của khách hàng. ÁP ĐẢO TRÊN "CHỢ" TRÁI PHIẾU Cập nhật mới nhất từ FiinRatings, các ngân hàng thương mại chiếm đến 87% tổng giá trị phát hành trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp tháng 7. Giá trị phát hành đạt hơn 27.000 tỷ đồng, tăng hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái. FiinRatings dự báo khối ngân hàng tiếp tục tăng phát hành trái phiếu trong thời gian còn lại của năm nay, nhằm có thêm vốn trung, dài hạn trên 3 năm khi tăng trưởng tín dụng dần khởi sắc. Nhiều nhà băng đã đăng ký hoặc dự kiến phát hành trái phiếu từ nay tới cuối năm, như Vietinbank 8.000 tỷ đồng, LPBank khoảng 6.000 tỷ, ACB 15.000 tỷ, còn SHB và BIDV lần lượt 5.000 tỷ và 4.000 tỷ đồng. Các nhà băng phát hành trái phiếu tăng trở lại thời gian qua để bổ sung vốn cấp 2 (vốn bổ sung), đáp ứng các quy định về an toàn vốn của Ngân hàng Nhà nước. Ông Trần Phú Việt, Trưởng phòng Nghiên cứu và phát triển sản phẩm, Bộ phận Dữ liệu tài chính, FiinGroup dự báo, thời gian tới, trái phiếu ngân hàng sẽ vẫn là nhóm chủ đạo dẫn dắt thị trường, dự kiến chiếm khoảng 70% giá trị phát hành nửa cuối năm 2024. Trong khi đó, trái phiếu bất động sản bắt đầu hồi phục nhờ một số có tiến độ pháp lý và trái phiếu hạ tầng có dấu hiệu khởi sắc. Theo ông Việt, hiện nay lãi suất vẫn cơ bản trên nền thấp nhưng nhiều tổ chức phát hành đang cân nhắc sử dụng vay dài hạn ngân hàng hay phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư phi ngân hàng. Bên cạnh đó, thị trường còn mong đợi hỗ trợ chính sách từ Ngân hàng Nhà nước trong việc cấp phép cho các ngân hàng cung cấp dịch vụ quản lý tài sản đảm bảo. THÙY DƯƠNG Thấy gì từ xếp hạng tín nhiệm các ngân hàng? Sự chênh lệch trong xếp hạng tín nhiệm gần đây của các ngân hàng xuất phát từ các yếu tố như nguồn vốn, hiệu quả sinh lời, chất lượng tài sản, khả năng thanh khoản, sự hỗ trợ của các công ty liên kết và Chính phủ. Theo VIS Rating, các ngân hàng Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn, lượng tài sản thanh khoản cao còn hạn chế khi phải đối mặt với cú sốc thanh khoản. Trong xếp hạng tín nhiệm ngân hàng, hai rủi ro được lưu ý là quản trị và thanh khoản ẢNH: NHƯ Ý CÂN NHẮC TỪ NHIỀU GÓC ĐỘ NHCSXH là loại hình ngân hàng chính sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Nghị định số 100/2024/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/8/2024, quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về phát triển và quản lý nhà ở xã hội, đã mang đến một loạt thay đổi đáng chú ý liên quan đến việc cho vay nhà ở xã hội. Một trong những thay đổi đáng chú ý là lãi suất cho vay được điều chỉnh theo mức lãi suất cho vay đối với hộ nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng thời kỳ. Mức lãi suất nợ quá hạn cũng được quy định là 130% so với lãi suất cho vay thông thường. Điều này có nghĩa rằng, với lãi suất cho vay hộ nghèo hiện tại là 6,6%/năm, lãi suất cho vay NƠXH tại NHCSXH đã tăng thêm 1,8% so với trước đây. Theo Phó Tổng Giám đốc NHCSXH Huỳnh Văn Thuận, mức lãi suất cho vay này đã được cơ quan có thẩm quyền tổng kết, đánh giá, tính toán kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng Nghị định của Chính phủ; dự thảo Nghị định đã được lấy ý kiến tham gia rộng rãi của các Bộ, ngành, địa phương, người dân để hoàn thiện, thẩm định trước khi trình Chính phủ ban hành theo quy định. Đánh giá về những điều chỉnh mới, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, nhận định rằng việc phê duyệt mức lãi suất 6,6%/năm đã được cân nhắc kỹ lưỡng, nhằm đảm bảo cân đối nhiều yếu tố. Ông cho rằng chính sách này cần nhìn nhận từ góc độ ổn định và dài hạn, với thời hạn vay lên đến 25 năm. Theo báo cáo của NHCSXH tính đến 31/7/2024, sau gần 10 năm triển khai thực hiện cho vay NƠXH theo Luật Nhà ở 2014, Nghị định số 100/2015/NĐ-CP, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP, NHCSXH đã giải ngân được 20.894 tỷ đồng cho hơn 49.000 khách hàng, dư nợ đạt 17.263 tỷ đồng với gần 46.000 khách hàng đang còn dư nợ. Nguồn vốn tín dụng chính sách về NƠXH đã góp phần giúp hơn 49.000 người thu nhập thấp, công nhân cùng gia đình có NƠXH và góp phần xây dựng hơn 49.000 căn nhà ở, ổn định “an cư, lạc nghiệp”, yên tâm lao động sản xuất, phát triển kinh tế. XEM XÉT ĐIỀU CHỈNH PHÙ HỢP THỰC TIỄN Được tính toán kỹ lưỡng nhằm duy trì tính bền vững của chương trình và giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, một số chuyên gia cũng nhấn mạnh sự cần thiết của một chính sách ổn định trong dài hạn. TS Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia kinh tế, đánh giá mức lãi suất 6,6%/năm là tương đối hấp dẫn, và nhấn mạnh cần cố định mức lãi suất này trong nhiều năm để tạo sự ổn định cho người vay. Ông Hiếu lấy ví dụ về lãi suất vay mua nhà tại Mỹ, nơi mức lãi suất có thể lên đến 7,5%/năm nhưng được cố định trong suốt 30 năm, giúp người vay có thể lên kế hoạch tài chính dài hạn mà không lo ngại về sự biến động của lãi suất. Trước những ý kiến đa chiều liên quan đến việc điều chỉnh lãi suất cho vay NƠXH theo Nghị định số 100/2024/NĐ-CP, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH Huỳnh Văn Thuận khẳng định với vai trò là đơn vị triển khai thực hiện cho vay, NHCSXH sẽ tiếp thu các ý kiến để báo cáo các Bộ, ngành liên quan, từ đó báo cáo trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. NHCSXH cũng cam kết tiếp tục tập trung triển khai thực hiện chương trình cho vay NƠXH đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của Chính phủ tại Nghị định số 100/2024/NĐ-CP, trong đó có quy định về lãi suất cho vay. PV Điều chỉnh lãi suất cho vay nhà ở xã hội Theo Nghị định số 100/2024/ NĐ-CP, từ ngày 01/8/2024 Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) thực hiện lãi suất cho vay mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở từ mức 4,8%/năm lên 6,6%/năm. Mức lãi suất mới này được điều chỉnh nhằm đảm bảo tính bền vững của chương trình cho vay và giảm tải gánh nặng ngân sách Nhà nước. Gia đình chị Nguyễn Thị Kiều Vy ở phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, Hà Nội vui mừng khi được NHCSXH cho vay 600 triệu đồng vốn ưu đãi để mua NƠXH Đối tượng được vay vốn ưu đãi để mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở theo Nghị định số 100/2024/NĐ-CP: 1. Người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ thuộc trường hợp được hỗ trợ cải thiện nhà ở theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. 2. Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực nông thôn. 3. Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu. 4. Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị. 5. Người thu nhập thấp tại khu vực đô thị. 6. Công nhân, người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong và ngoài khu công nghiệp. 7. Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, công nhân công an, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng đang phục vụ tại ngũ; người làm công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu hưởng lương từ ngân sách nhà nước đang công tác. 8. Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức. Chi tiết xem tại: https://chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=210760

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==