13 ĐỜI SỐNG - XÃ HỘI n Thứ Tư n Ngày 21/8/2024 Theo đó, đến năm 2025, Bình Dương phấn đấu có ít nhất 6 doanh nghiệp sản xuất, cung cấp dịch vụ, kinh doanh, phân phối sản phẩm trong lĩnh vực công nghệ số; 200 doanh nghiệp chuyển đổi sang công nghệ số trong tất cả các ngành, nghề, lĩnh vực. Phổ cập dịch vụ mạng di động 5G, trước tiên là các khu vực đô thị, khu CNTT tập trung và các khu công nghiệp. Có 1 đến 3 doanh nghiệp công nghệ số có sản phẩm cạnh tranh trên thị trường. Sản phẩm phần mềm, nội dung số và dịch vụ CNTT của doanh nghiệp trong tỉnh đáp ứng tốt yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng Chính quyền điện tử, Chính phủ số, đô thị thông minh phục vụ hiệu quả cho các cơ quan, tổ chức và người dân. Phấn đấu kinh tế số chiếm 20% GRDP của tỉnh. Đến năm 2030, Bình Dương có tối thiểu 20 doanh nghiệp công nghiệp công nghệ số được thành lập mới; có trên 1.000 doanh nghiệp chuyển đổi sang công nghệ số trong tất cả các ngành, nghề, lĩnh vực, trong đó các doanh nghiệp “Make in Vietnam” làm ra sản phẩm công nghệ lõi, chủ lực trong chuyển đổi số, đô thị thông minh. Có ít nhất 12 doanh nghiệp công nghệ số đáp ứng yêu cầu hỗ trợ xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, chính phủ số, phát triển kinh tế số, ứng dụng thành tựu công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và thực hiện chuyển đổi số của tỉnh. Hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp đăng ký mới trong lĩnh vực công nghệ cung cấp các giải pháp công nghệ số phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo cân bằng giữa khu vực thành thị và nông thôn, đưa công nghệ số vào mọi lĩnh vực của đời sống, kinh tế - xã hội. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa được tham gia các khóa đào tạo, tập huấn, tư vấn về chuyển đổi số sẽ thực hiện chuyển đổi số thành công theo kế hoạch đặt ra của mỗi doanh nghiệp, ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn. Phấn đấu kinh tế số chiếm 30% GRDP của tỉnh. Các nhóm giải pháp cần triển khai thực hiện trong năm 2024 để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển doanh nghiệp công nghệ số trên địa bàn tỉnh theo kế hoạch, bao gồm việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế chính sách ưu đãi, đặc thù của Trung ương như khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ số về hạ tầng, mặt bằng, tín dụng, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Tập trung phát triển hạ tầng số. Phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Phát triển nhân lực công nghệ số. Phát triển thị trường cho sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức về phát triển doanh nghiệp công nghệ số. DỰA VÀO KINH TẾ SỐ ĐỂ VƯỢT BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH Ông Nguyễn Hữu Yên - Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bình Dương cho biết, toàn tỉnh có 68.000 doanh nghiệp, trong đó có 7.000 doanh nghiệp công nghệ thông tin. Bình Dương đã hình thành được chuỗi liên kết dịch vụ logistics cấp vùng với hệ thống hạ tầng gồm 15 trung tâm logistics quy mô lớn, trong đó có 3 cảng cạn và 1 ga đường sắt quốc tế phục vụ xuất - nhập khẩu hàng hóa; hình thành 10 cảng sông, 21 kho hàng, 19 kho ngoại quan, 2 kho CFS (điểm gom hàng lẻ) đang hoạt động phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất tại các khu, cụm công nghiệp và thực hiện chức năng phân phối hàng hóa đến các tỉnh, thành trong khu vực và xuất khẩu. Theo GS.TS Trần Thọ Đạt - Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Chính phủ từ năm 2020 khi đạt được ngưỡng thu nhập bình quân đầu người 7.000 USD, đây chính là chiếc "bẫy" thu nhập trung bình và chỉ giải quyết được nếu Bình Dương thay đổi phương thức phát triển. Câu chuyện thành công của Bình Dương đến thời điểm này phải viết bằng cách khác, không chỉ đơn giản là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đòi hỏi cần có một tư duy khác và phải có động lực khác trong quá trình tăng trưởng, đó chính là tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học - công nghệ, dựa vào kinh tế "số" và "xanh" để vượt bẫy thu nhập trung bình. Theo các chuyên gia, để thúc đẩy kinh tế số tại Bình Dương trong bối cảnh hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó tập trung đảm bảo an ninh 3 trụ cột: Thể chế kinh tế số; hạ tầng số và nhân lực số. Bên cạnh đó, chuyển đổi số doanh nghiệp cần tập trung vào các ngành: Chế biến gỗ; sản xuất, chế biến thực phẩm; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; sản xuất hóa chất… Đồng thời, cần thành lập Trung tâm hỗ trợ chuyển đổi số dành cho các doanh nghiệp; quan tâm đầu tư vào nền tảng số thay vì đầu tư vào các ứng dụng CNTT lẻ vì nền tảng số sẽ có tốc độ tăng trưởng khoảng 5,52% so với doanh nghiệp đầu tư vào ứng dụng CNTT (tăng trưởng chỉ 0,56%). HƯƠNG CHI Bình Dương chuyển dịch sản xuất kinh doanh truyền thống sang công nghệ số Tỉnh Bình Dương định hướng, chuyển dịch sản xuất kinh doanh từ bị động về công nghệ số sang chủ động nghiên cứu phát triển và cung cấp các sản phẩm công nghệ số đối với các doanh nghiệp. Bình Dương hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số ẢNH: H.C Theo đó, doanh thu của TKV trong 06 tháng đầu năm 2024 đạt 87.780 tỷ đồng, bằng 50,1% kế hoạch năm. Sản lượng tiêu thụ một số sản phẩm chính hoàn thành và vượt kế hoạch. Sản lượng than tiêu thụ của TKV đạt 26,0 triệu tấn, bằng 52,01% so với kế hoạch năm và bằng 104,8% so với cùng kỳ năm 2023. Alumin (quy đổi) tiêu thụ 711 ngàn tấn, bằng 54,7% so với kế hoạch năm và bằng 102,9% so với cùng kỳ. Từ kết quả trên, lợi nhuận trước thuế toàn Tập đoàn đạt 3.610 tỷ đồng, bằng 82% kế hoạch năm (4.380 tỷ đồng). Trong đó, lợi nhuận Công ty mẹ TKV đạt 1.935 tỷ đồng, bằng 59,9% kế hoạch năm (3.230 tỷ đồng). Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu, hệ số tài chính của TKV tiếp tục được duy trì trong phạm vi an toàn cho phép, thể hiện khả năng tự chủ về tài chính và đảm bảo tính thanh khoản trong toàn Tập đoàn. Cùng với đó, TKV luôn thực hiện đầy đủ và kịp thời nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, không để xảy ra tình trạng chậm nộp hay phát sinh nợ quá hạn. Tổng số nộp ngân sách toàn Tập đoàn trong 06 tháng đầu năm 2024 đạt 14.316 tỷ đồng, bằng 56,1% kế hoạch năm (25.500 tỷ đồng). Tiền lương bình quân toàn Tập đoàn trong 06 tháng đầu năm 2024 đạt 16,7 triệu đồng/ người/tháng bằng 101,6% so với kế hoạch năm; các chế độ phúc lợi mang tính đặc thù được đảm bảo. Bên cạnh đó, TKV luôn quan tâm đến việc cải thiện môi trường làm việc, đảm bảo môi trường lao động luôn sạch sẽ, an toàn. TÚ NGUYÊN TKV duy trì ổn định khả năng tự chủ tài chính ở mức cao Sáu tháng đầu năm 2024, tình hình sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) chịu ảnh hưởng từ thị trường tiêu thụ khoáng sản thế giới và trong nước, giá cả thị trường của các loại vật tư, nguyên vật liệu, nhiên liệu tăng so với đầu năm làm tăng chi phí đầu vào, nhưng TKV đã cố gắng nỗ lực, quyết liệt vượt qua những khó khăn, thách thức, cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh theo kế hoạch năm đã đề ra, đời sống cán bộ công nhân viên tiếp tục được duy trì ổn định. Thợ mỏ TKV tăng gia thi đua sản xuất uảng Ninh vừa đề xuất UNESCO tiếp tục công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên Thế giới về đa dạng sinh học. Đây sẽ là danh hiệu thứ 3 khi vịnh Hạ Long đã được công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới với giá trị ngoại hạng toàn cầu về mặt thẩm mỹ (1994) và Di sản Thiên nhiên Thế giới về giá trị địa chất - địa mạo (2000). Trong khuôn khổ kỳ họp thứ 46 của Ủy ban Di sản thế giới đang diễn ra tại thủ đô New Delhi, Ấn Độ, đại diện lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Ninh đã xin ý kiến các chuyên gia, cơ quan tư vấn của UNESCO trong việc xây dựng hồ sơ mở rộng tiêu chí 10 về đa dạng sinh học của vịnh Hạ Long đề xuất UNESCO công nhận. Theo quy định Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, để trở thành di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, mỗi di sản cần đạt được một trong 10 tiêu chí. Trong đó, tiêu chí 10 là chứa đựng các môi trường sinh sống thiên nhiên quan trọng và có ý nghĩa nhất đối với việc bảo tồn tại chỗ đa dạng sinh học, kể cả những nơi chứa đựng các giống loài bị đe doạ có giá trị nổi bật toàn cầu xét dưới góc độ khoa học hoặc bảo tồn. Trong khi đó, thế giới sinh vật tại vịnh Hạ Long rất đa dạng và phong phú, tập trung đầy đủ thành phần các loài sinh vật trên cạn, dưới nước, bậc thấp, bậc cao cùng sinh sống trong 10 hệ sinh thái biển và rừng khác nhau. Đến nay đã thống kê được gần 3.000 loài động thực vật sống trong khu vực, trong số đó có 507 loài thực vật trên cạn, 278 loài thực vật phù du, 141 loài động vật phù du, 110 loài san hô, 156 loài cá biển, 71 loài chim, 53 loài thú… Sự đa dạng về thành phần loài trên cạn, dưới nước đã nói lên bức tranh đa dạng sinh học của vịnh Hạ Long, đưa vịnh Hạ Long trở thành khu vực có số lượng loài nhiều nhất đã biết ở Việt Nam. HOÀNG DƯƠNG Đề xuất UNESCO công nhận danh hiệu thứ 3 cho vịnh Hạ Long Vịnh Hạ Long ẢNH HOÀNG DƯƠNG Q
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==