Tiền Phong số 220

8 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ n Thứ Tư n Ngày 7/8/2024 NHỮNG CON SỐ BIẾT NÓI Hàng trăm đại biểu là chuyên gia văn hóa, kinh tế trong nước và đại diện hàng chục quốc gia thành viên đã có mặt tại hội nghị quốc tế Vai trò và đóng góp của phong trào UNESCO đối với công nghiệp văn hóa do Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam đăng cai tổ chức trong hai ngày 5&6/8 tại Quảng Ninh. Công nghiệp văn hóa đang hòa vào dòng chảy bất tận của nền văn hóa quốc gia để hội tụ, kết tinh và lan tỏa những giá trị thời đại mới. Hoạt động của ngành công nghiệp này dần có nhiều bước tiến lớn về cả quy mô, số lượng lẫn chất lượng. Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê của Bộ VHTTDL, 12 ngành công nghiệp văn hóa đóng góp doanh thu hơn 8 tỷ USD, tương đương khoảng 4% GDP. Ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo, xuất khẩu hàng hóa sáng tạo của Việt Nam tăng từ 611 triệu USD năm 2002 lên 5,9 tỷ USD năm 2010, 6,4 tỷ USD năm 2015 và 14,2 tỷ USD năm 2020. Tính trung bình giai đoạn 2011-2020, xuất khẩu hàng hóa sáng tạo Việt Nam tăng 9,23%, cao hơn so với mức tăng của tổng xuất khẩu hàng hóa sáng tạo của thế giới (2,28%/năm). Ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư cho biết, đóng góp của công nghiệp văn hóa cho nền kinh tế không chỉ thể hiện ở giá trị xuất khẩu và đóng góp vào GDP mà còn ở việc tạo việc làm, quảng bá hình ảnh quốc gia, thu hút du khách quốc tế, nâng tầm vị thế quốc gia và tạo tác động lan tỏa tới các ngành, lĩnh vực khác. “Các sản phẩm công nghiệp văn hóa trên các lĩnh vực như âm nhạc, hội họa, văn chương, sân khấu, điện ảnh… ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu của công chúng, trong đó nhiều sản phẩm có giá trị cao, tạo được tiếng vang trong nước và quốc tế. Ngành thủ công mỹ nghệ trong nước thu hút khoảng 1,5 triệu lao động”, ông Nguyễn Hoa Cương cho biết. Các tác phẩm, sản phẩm có nguồn gốc từ văn hóa vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa là “quyền lực mềm” về chính trị, kinh tế, xã hội, quảng bá hình ảnh, con người, sản phẩm thương mại của quốc gia. Đạo diễn Nguyễn Việt Tú nêu một vài ví dụ nổi bật: chuỗi công viên Disneyland đón 100 triệu lượt khách/năm, tạo ra hàng trăm nghìn công ăn việc làm trực tiếp, gián tiếp tại các địa phương có công viên này. Chuyến lưu diễn Eras Tour của ca sĩ Taylor Swift mang lại cho thành phố Los Angeles 320 triệu USD, khu vực Bắc Mỹ là 2,2 tỷ USD… Các con số thống kê này lớn hơn GDP của rất nhiều quốc gia. GIÁ TRỊ VÔ GIÁ CỦA DI SẢN VĂN HÓA Ông Lê Quốc Minh, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam cho rằng, Việt Nam không thiếu các giá trị độc đáo để làm cơ sở phát triển công nghiệp văn hóa, tuy nhiên việc tìm kiếm các giá trị văn hóa này, đầu tư và thực sự biến chúng thành tiền đề phát triển không phải là nhiệm vụ đơn giản. “Nếu không sớm xác định được tài sản văn hóa thì quá trình đô thị hóa, bê tông hóa và sự đánh đổi tăng trưởng trước mắt có thể sẽ khiến nhiều di sản mất đi vĩnh viễn. Trong nhiều thập kỷ, những chủ trương công nghiệp hóa và hiện đại hóa thường được gắn với các ngành công nghiệp, xây dựng, nhưng khi văn hóa là một mũi nhọn, chúng ta phải xem xét Theo thống kê, 12 ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đã đóng góp hơn 8 tỷ USD, tương đương khoảng 4% GDP. Mục tiêu của chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP. Di sản văn hóa được xác định là trụ cột quan trọng trong phát triển công nghiệp văn hóa. Nhiều chuyên gia chỉ ra, nếu di sản bị khai thác một cách bừa bãi hoặc không được bảo tồn sẽ tác động trực tiếp tới công nghiệp văn hóa. Đẩy mạnh đăng ký bản quyền Trong một thế giới mà việc sao chép và phân phối các tác phẩm số trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết, việc đăng ký bản quyền trở nên cực kỳ quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo, góp phần thúc đẩy sự sáng tạo và phát triển của nền công nghiệp văn hóa. “Khi các tác giả và nghệ sĩ biết rằng được bảo vệ về mặt pháp lý, họ sẽ có động lực để sáng tạo nhiều hơn, không ngại ngần trong việc đầu tư thời gian và công sức vào các dự án mới”, thạc sĩ Bùi Ngọc Trình, Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn nêu. THÚC ĐẨY NGÀNH CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA: Mỏ vàng từ các di sản Di sản văn hóa được xác định là trụ cột quan trọng trong phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam Từ nhiều năm trước, khi UNESCO bắt đầu hợp tác với Huế về bảo tồn di sản, tổ chức này đã tặng cho Huế slogan: “Huế luôn luôn mới”. Theo những người làm công tác văn hóa tại vùng đất Cố đô, đó là một câu nói rất thú vị xuất phát từ nhìn nhận Huế có những giá trị di sản văn hóa vô cùng lớn và đặc biệt. Theo ông Phan Thanh Hải, Ủy viên Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia - Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Thừa ThiênHuế, nếu Huế luôn biết cách làm mới mình, thì sự phát triển của vùng đất này là vô tận, rất riêng, rất đặc biệt. Cái cách “làm mới” của Huế như nhìn nhận của UNESCO được hiểu đó là phương thức tiếp cận, sự sáng tạo, đưa di sản tiếp cận với cộng đồng và luôn có sức hấp dẫn, mới mẻ với mọi người. Từ đó, di sản văn hóa tạo ra nguồn lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế xã hội, cải thiện sinh kế cộng đồng dân cư. Trữ lượng về di sản văn hóa của Huế vô cùng phong phú, cả trên phương diện di sản vật chất, di sản tinh thần, di sản tư liệu, khó có địa phương nào hiện có thể sánh được. Cụ thể, Huế có đến 8 di sản văn hóa được UNESCO công nhận, vinh danh trên bình diện thế giới, bao gồm di sản vật thể, di sản phi vật thể, di sản tư liệu. Nhiều năm qua, cả hệ thống chính trị của Thừa Thiên-Huế rất quan tâm công tác bảo tồn, gìn giữ di sản văn hóa và sử dụng khai thác các lợi thế về văn hóa di sản để phát triển. Bằng chứng rõ nhất đó là công tác đầu tư cho bảo tồn trùng tu di sản văn hóa. Huế có lẽ là địa phương sớm nhất ở Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với UNESCO và các tổ chức quốc tế trong gìn giữ, bảo tồn các di sản văn hóa; được đánh giá là một trong những “cái nôi” của Việt Nam về bảo tồn di sản. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, Huế đã bắt đầu khai thác lợi thế này thông qua thử nghiệm các hoạt động lễ hội văn hóa. Đến năm 2000, Festival Huế đầu tiên được tổ chức. Từ đó đến nay, qua 24 năm, Huế đã tổ chức 12 kỳ Festival văn hóa quốc tế và 8 kỳ Festival văn hóa nghề truyền thống. Từ năm 2022, Huế chuyển qua mô hình Festival 4 mùa nhằm khai thác tối đa lợi thế về di sản văn hóa quanh năm để phục vụ mục đích phát triển. “Có thể nói, đó là hướng tiếp cận sáng tạo, rất phù hợp và tích cực, bên cạnh đó là những lợi thế khác”, ông Phan Thanh Hải đánh giá. Cũng theo ông Hải, Huế đã nghiên cứu, tìm tòi để khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa tiêu biểu và phù hợp nhất, tận dụng tối đa lợi thế về di sản. Tiêu biểu là việc Huế hiện tập trung xây dựng các đề án như Huế - Kinh đô áo dài, Huế - Kinh đô ẩm thực, Huế - Thành phố của hoàng mai, xây dựng đề án ca Huế trở thành sản phẩm di sản văn hóa đặc thù, đề án bảo tồn phát huy nhã nhạc Cung đình Việt Nam… Huế cũng là địa phương đầu tiên cả nước đề ra chính sách phát triển hệ thống bảo tàng ngoài công lập. Ngoài ra, Huế còn nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách cho văn nghệ sĩ Huế với những chính sách ưu đãi đặc thù, nhằm khai thác lợi thế về con người trên vùng đất di sản… NGỌC VĂN BIẾN DI SẢN THÀNH NGUỒN LỰC, LỢI THẾ PHÁT TRIỂN: Nhìn từ Cố đô Huế Biến di sản văn hóa thành tài sản, nguồn lực cho sự phát triển là mục tiêu mà Huế luôn hướng đến Huế hiện là một trong số ít những đô thị trong cả nước có lợi thế đặc biệt từ di sản văn hóa để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế, tạo sinh kế cho cộng đồng dân cư. Vậy Huế làm gì để biến di sản thành nguồn lực, lợi thế thúc đẩy phát triển?

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==