THỜI SỰ 5 n Thứ Tư n Ngày 26/6/2024 Hiện nay lương khu vực doanh nghiệp chia làm 4 vùng: Vùng 1 là 4,68 triệu đồng/tháng; vùng 2 là 4,16 triệu đồng/tháng; vùng 3 là 3,64 triệu đồng/tháng và vùng 4 là 3,25 triệu đồng/tháng. Như vậy, mức lương thấp nhất bình quân của khu vực doanh nghiệp hiện nay là hơn 3,9 triệu đồng. Dự kiến cuối năm nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ trình Chính phủ phương án tăng lương tối thiểu vùng. Tuy nhiên, trong các phiên thảo luận tại Quốc hội vừa qua, nhiều đại biểu đề nghị tăng lương tối thiểu vùng đồng thời với lộ trình thực hiện cải cách tiền lương từ 1/7/2024. Lương tối thiểu vùng nhằm đảm bảo đời sống người lao động. Trước thông tin tăng lương tối thiểu vùng, nhiều người lao động ngóng chờ. Anh Nguyễn Thưởng - công nhân công ty may tại Khu công nghiệp Tân Trường (Cẩm Giàng, Hải Dương) cho biết, lương cơ bản hằng tháng gần 4,6 triệu đồng/ tháng. Ngoài ra, hằng tháng anh Thưởng có thêm phụ cấp như chuyên cần 450.000 đồng/tháng, phụ cấp đi lại 300.000 đồng/tháng. “Nếu làm tăng ca, mỗi tháng tổng tiền lương, phụ cấp của tôi khoảng 8 triệu đồng. Nghe tin sắp tăng lương tối thiểu vùng, tôi rất mừng vì phần lương cơ bản sẽ tăng thêm, bù chi phí sinh hoạt hằng ngày”, anh Thưởng chia sẻ. Theo dự thảo Nghị định quy định mức lương tối thiểu cho người lao động làm việc theo hợp đồng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đề xuất tăng lương tối thiểu ở mức 6% so với mức hiện hành. Mức lương tối thiểu tháng của Vùng I lên mức 4,96 triệu đồng/tháng; Vùng II 4,41 triệu đồng/tháng; Vùng III 3,86 triệu đồng/tháng; Vùng IV 3,4 triệu đồng/tháng. Với địa phương chuyển vùng này, dự kiến người lao động sẽ được tăng lương 410.000 - 550.000 đồng/tháng (tuỳ từng địa phương). Khi lương tối thiểu được điều chỉnh tăng, ngoài việc được tăng tiền lương hằng tháng, người lao động sẽ được tăng một số quyền lợi như: tăng tiền lương ngừng việc; tăng mức đóng bảo hiểm xã hội; tăng mức đóng bảo hiểm thất nghiệp; tăng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa... Theo tìm hiểu của PV Tiền Phong, mức lương tối thiểu vùng dành cho người lao động làm việc theo hợp đồng lao động của Bộ luật Lao động tại doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình thuê mướn, sử dụng người lao động theo thoả thuận. Với đối tượng này, sẽ có hàng chục triệu người lao động được tăng lương khi đề xuất tăng lương tối thiểu vùng được thông qua. Trái ngược với sự háo hức, chờ đợi của người lao động, trong bối cảnh chưa thoát khỏi khó khăn, nhiều doanh nghiệp lo lắng về việc tăng lương tối thiểu vùng sắp tới. Ông Đoàn Tiến Dũng - Giám đốc Cty may Nam Hà cho biết, đề xuất tăng lương tối thiểu vùng tác động tới doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như may mặc, da giày, đồ gỗ, chế biến. Trong khi đây là những doanh nghiệp đang gặp khó khăn hậu thời kỳ dịch bệnh, sự phục hồi kinh tế chậm chạp của các thị trường lớn. “Doanh nghiệp mong ngóng sự phục hồi thị trường xuất khẩu, sự hỗ trợ của Nhà nước để doanh nghiệp sớm phục hồi, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động. Trong bối cảnh bình thường, chi phí tăng lương tối thiểu vùng của doanh nghiệp không đáng bao nhiêu. Tuy nhiên, trong lúc khó khăn, chỉ một phần nhỏ chi phí tăng lương cũng khiến doanh nghiệp khó chồng khó”, ông Dũng chia sẻ. Theo ông Dũng, đề xuất tăng lương tối thiểu vùng có 2 mặt. Về phía người lao động, tăng lương luôn được ngóng chờ và giúp người lao động có thêm động lực. Tuy nhiên, với doanh nghiệp, việc tăng lương sẽ thêm phần lo lắng khi chi phí tăng lên giữa lúc khó khăn. “Công chức, viên chức tăng lương cơ sở 30% trong khi người lao động tại doanh nghiệp không tăng lương hoặc tăng thấp quá sẽ ảnh hưởng tâm lý. Ở góc độ doanh nghiệp, chúng tôi mong muốn cơ quan chức năng có thêm nhiều chính sách hỗ trợ góp phần phục hồi sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp phục hồi, làm ăn hiệu quả sẵn sàng ủng hộ chính sách tăng lương cho người lao động”, ông Dũng cho biết. Từ năm 2008 tới năm 2019, lương tối thiểu vùng tăng đều qua các năm với mức tăng 120.000 - 650.000 đồng/tuỳ từng năm. NGỌC LINH Trong đề án thực hiện chế độ tiền lương mới từ 1/7 sẽ có cả phần tăng lương tối thiểu vùng. Đây là phần mà người lao động sẽ rất quan tâm trong khi các doanh nghiệp thì lo lắng về nguồn chi trả. Lao động chờ, doanh nghiệp lo Việc cải cách chính sách tiền lương chia thành từng nhóm đối tượng... Có 9 loại phụ cấp theo chế độ tiền lương mới gồm: phụ cấp kiêm nhiệm; phụ cấp thâm niên vượt khung; phụ cấp khu vực; phụ cấp trách nhiệm công việc; phụ cấp lưu động; phụ cấp ưu đãi theo nghề; phụ cấp công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; phụ cấp theo phân loại đơn vị hành chính và theo phân hạng đơn vị sự nghiệp công lập; phụ cấp áp dụng riêng đối với lực lượng vũ trang. Đáng chú ý, viên chức giáo dục và y tế sẽ cao hơn so với mặt bằng chung của đội ngũ công chức và viên chức khác. Khi cải cách tiền lương, Bộ Nội vụ sẽ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Y tế đề nghị cấp có thẩm quyền quan tâm điều chỉnh hỗ trợ để đảm bảo tiền lương (bao gồm cả phụ cấp) của giáo viên, bác sĩ được tăng lên tương ứng với yêu cầu và vị trí việc làm, vừa bảo đảm mặt bằng tiền lương chung của cán bộ, công chức, viên chức, vừa thể hiện ưu đãi đối với hai ngành này. Đối với người lao động trong doanh nghiệp, Nghị quyết 27 yêu cầu hoàn thiện chính sách về mức lương tối thiểu vùng. Cơ quan chức năng điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình người hưởng lương, đặt trong mối quan hệ với các yếu tố của thị trường lao động và phát triển kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp 100% vốn nhà nước) được tự quyết định chính sách tiền lương (trong đó có thang, bảng lương, định mức lao động) và trả lương không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố và trên cơ sở thỏa ước lao động tập thể. Nhà nước công bố mức lương tối thiểu vùng. Năm 2024, mức lương tối thiểu vùng đề xuất tăng 6% so với hiện hành. NGỌC LINH Theo thông tin từ Thương vụ Việt Nam tại Philippines, Tổng thống Philippines vừa ban hành sắc lệnh cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng. Riêng với mặt hàng gạo, thuế nhập khẩu giảm từ mức 35% còn 15%. Thời điểm áp dụng mức thuế nhập khẩu gạo mới của Philippines dự kiến vào đầu tháng 8 và kéo dài tới năm 2028. Đây được coi là động thái mới nhất của Chính phủ Philippines nhằm đối phó với tình trạng lạm phát, đặc biệt là giá mặt hàng gạo có xu hướng tăng cao liên tục kể từ đầu năm tới nay. Trao đổi với PV Tiền Phong, ông Nguyễn Văn Đôn - Giám đốc Công ty TNHH Việt Hưng cho biết, thị trường Philippines hiện khá ưa chuộng các loại gạo ĐT8 và 5451 của Việt Nam. Gạo Việt Nam hầu như thống lĩnh tại khu vực Metro Manila và khu vực các tỉnh phía Nam do ngon cơm và giá cả phù hợp, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng Phillippines, đặc biệt là tầng lớp dân cư có thu nhập trung bình và thấp. Theo ông Đôn, hai năm qua, gạo Việt luôn đứng đầu thế giới ở mức giá cao, cộng thuế nhập khẩu 35% nên các đối tác như Philippines gặp khó trong việc mua hàng. Họ không lấy hàng dồn dập như trước mà tìm cách liên kết với nhau để duy trì mặt bằng giá nhập khẩu thấp. Chẳng hạn, thương nhân nước này tránh đặt mua gạo vào thời điểm ngoài vụ thu hoạch của Việt Nam mà chủ yếu vào chính vụ với nguồn cung dồi dào để có thể mua được giá thấp hơn. Với việc Chính phủ Phillippines giảm thuế nhập khẩu gạo xuống còn 15%, ông Đôn cho rằng, cả DN Việt Nam và đối tác, người mua gạo ở Phillipines sẽ có lợi. “Người dân Phillippines có thể mua gạo với giá rẻ hơn, từ đó kích thích DN nước này mạnh dạn nhập khẩu. Còn DN Việt có thể cải thiện được biên lợi nhuận, tăng giá bán và gia tăng đơn hàng xuất khẩu sang thị trường này mà không phải cạnh tranh với gạo sản xuất trong nước”, ông Đôn cho hay. Ông Nguyễn Văn Thành, Giám đốc Công ty TNHH Phước Thành 4 đánh giá, việc Phillipines giảm thuế nhập khẩu gạo sẽ giúp thị trường gạo của nước này trở nên sôi động hơn trong những tháng cuối năm. Thời gian qua, cả bên bán lẫn bên mua đều “án binh bất động” chờ chính sách thuế mới của Philippines, nay việc đàm phán mua bán đã được nối lại khi quốc gia nhập khẩu gạo lớn nhất quyết định giảm thuế. Điều này giúp gạo Việt Nam hưởng lợi lớn nhất khi có ưu thế về sản phẩm tươi, chi phí thấp, giao nhận nhanh. Tuy nhiên, theo ông Thành, không chỉ DN Việt Nam có cơ hội mà DN Thái Lan cũng hưởng lợi. Hiện các DN gạo nước này tìm cách gia tăng sản lượng, thị phần xuất khẩu gạo vào Philippines và cạnh tranh rất gay gắt với gạo Việt Nam. Không ít thời điểm vừa qua khi giá gạo Việt Nam cao, các thương nhân Philippines tìm đến gạo Thái Lan và nguồn cung khác có giá cạnh tranh hơn. Ông Phùng Văn Thành, Tham tán thương mại Việt Nam tại Philippines cho biết, với thị trường Philippines, gạo là mặt hàng thiết yếu và mỗi năm nước này nhập khoảng 3,5-4 triệu tấn. Trong những năm qua, Việt Nam luôn là đối tác xuất khẩu gạo lớn nhất, luôn chiếm trên 80% tổng lượng gạo nhập khẩu vào thị trường Philippines. Do đó, DN Việt Nam phải tiếp tục giữ vững và đảm bảo chất lượng gạo ổn định, không ngừng nâng cao chất lượng các sản phẩm gạo xuất khẩu, qua đó góp phần nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, giữ được giá bán ổn định. Giáo sư Võ Tòng Xuân, chuyên gia lúa gạo cho rằng, đã đến lúc chúng ta phải sắp xếp lại, tổ chức lại chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo của Việt Nam để thực hiện hiệu quả mục tiêu 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Đây là đường dài bền vững để gạo của Việt Nam có thể đi xa. DƯƠNG HƯNG Cơ hội mới cho gạo Việt Để duy trì vị thế xuất khẩu, các DN cần tránh tình trạng giảm giá sâu, dìm hàng để giành đơn hàng Theo các doanh nghiệp (DN), việc Phillippines giảm thuế nhập khẩu đối với mặt hàng gạo, tạo điều kiện cho gạo Việt Nam tiếp tục tăng cơ hội tại thị trường nhập khẩu gạo số 1 hiện nay. Tuy vậy, trong bối cảnh gạo Thái đang tìm cách tăng thị phần, các DN Việt cần tránh dìm hàng, giảm giá để cạnh tranh lẫn nhau, làm mất lợi thế như vừa xảy ra tại thị trường Indonesia. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, chế biến gỗ chịu tác động nhiều của đề xuất tăng lương tối thiểu vùng. (Ảnh minh hoạ) Cải cách toàn diện cho từng nhóm đối tượng TIỀN LƯƠNG
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==