13 TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG n Thứ Ba n Ngày 21/5/2024 TIN TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG Vietcombank cảnh báo kẻ xấu giả mạo ngân hàng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vừa phát đi thông báo: Thời gian gần đây, Vietcombank nhận được những thông tin phản ánh về việc một số đối tượng mạo danh Vietcombank thực hiện các hành vi có dấu hiệu lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Phương thức lừa đảo: Mạo danh Vietcombank gửi email thông báo tuyển dụng và mời phỏng vấn và yêu cầu ứng viên chuyển khoản một khoản tiền phí hoặc yêu cầu ứng viên tham gia vòng sơ tuyển online bằng cách tải ứng dụng/nhấn vào đường link,…Lập nick giả mạo chuyên viên tuyển dụng Vietcombank và đề nghị ứng viên vào group zalo, telegram, sau đó dẫn dắt, hướng dẫn tải app/ nhấn vào đường link/bình chọn ảnh/trải nghiệm và đánh giá sản phẩm/tham gia dự án/thực hiện nhiệm vụ. Tạo các trang fanpage/website giả mạo Tuyển dụng Vietcombank, kêu gọi ứng tuyển Vietcombank bằng cách nhấn vào đường link có mã độc virus nhằm đánh cắp thông tin cá nhân, chiếm quyền kiểm soát điện thoại,…. Vietcombank khẳng định không thu bất kỳ khoản phí nào trong quá trình tuyển dụng. Không yêu cầu cung cấp thông tin tài khoản, giao dịch hãy mã OTP; không liên hệ với ứng viên hay tổ chức vòng loại sơ tuyển qua link hay app trò chuyện; Chỉ thông báo liên hệ với ứng viên ứng tuyển vào Vietcombank thông qua email với tên miền duy nhất: vietcombank.com. vn. Tất cả các tên miền khác đều là giả mạo và đề nghị người dân nâng cao cảnh giác. P.V Nhóm phân tích của công ty chứng khoán MB (MBS) vừa đưa ra phân tích tổng quan về bức tranh các ngân hàng niêm yết quý 1/2024. Theo đó, nhóm dự báo lợi nhuận sau thuế (LNST) các ngân hàng niêm yết này sẽ t·ng 9.6% so với kỳ trước trong bối cảnh t·ng trưæng tín dụng thấp. Ngân hàng niêm yết quý 1/2024 t·ng khiêm tốn 7.6% so với cùng kỳ trong đó thu nhập lãi thuần và thu nhập ngoài lãi t·ng lần lượt 8.1% và 5.6% so với cùng kỳ. Uớc tính cuối quý 1/24 t·ng trưæng tín dụng của các ngân hàng niêm yết chỉ đạt 1.9% so với đầu n·m, thấp hơn nhiều so với con số 3.9% cùng kỳ. NIM (khoảng cách chênh lệnh giữa lãi suất đầu vào -ra) trung bình toàn ngành trong quý 1/2024 æ mức 3.4%, giảm nhờ chi phí vốn giảm mạnh hơn so với të suất sinh lợi tài sản. Hiện chỉ số hoạt động CIR (tình hình hoạt động) trung bình các ngân hàng này giảm xuống mức 31.6% so với mức 32.0% của quý 1 n·m ngoái, đưa lợi nhuận trước dự phòng t·ng 1.9% so với cùng kỳ . Chi phí trích lập của họ cũng t·ng 5.4% đưa lợi nhuận sau thuế của khối nhà b·ng niêm yết t·ng 9.6% so với cùng kỳ, trong đó, nhóm NHTMCP Nhà nước t·ng 0.6%, nhóm NHTMCP tư nhân t·ng 14.9%. Chất lượng tài sản có xu hướng giảm đó là điều rõ tệt. Të lệ nợ nhóm 2 cũng t·ng nhÁ lên mức 2.10% so với 1.94% cuối 2023. Quy mô nợ xấu của các ngân hàng niêm yết t·ng 48.5% trong quý 1, t·ng 48.5% so với cùng kỳ trong khi chi phí trích lập chỉ t·ng nhÁ 5.4% khiến të lệ bao nợ xấu (LLR) suy giảm đáng kể.. Theo nhóm phân tích, họ quyết định dự báo điều chỉnh t·ng trưæng LNST 2024 các NH trong danh mục theo dõi xuống còn 21.8% so với cùng kỳ. “Cụ thể hiện kết quả kinh doanh quý 1/2024 của các ngân hàng theo dõi thấp hơn 14.3% so với dự báo của chÙng tôi phản ánh triển vọng lợi nhuận 2024 có thể sẽ k¾m khả quan hơn so với dự báo. Do đó, chÙng tôi điều chỉnh dự báo t·ng trưæng LNST cả n·m 2024 của các ngân hàng theo dõi xuống 21.8%, so với mức 23.6% trong dự báo gần nhất”- Nhóm này nhấn mạnh. Nhóm nghiên cứu cho rằng những ngân hàng duy trì được chất lượng tài sản không quá suy giảm trong 2 quý gần (TCB, HDB, VCB, VPB,...) đây nhưng vẫn đạt được mức t·ng trưæng lợi nhuận vượt trội so với toàn ngành (TCB, HDB,...) sẽ có được KQKD khả quan trong n·m 2024 khi nội tại của ngân hàng được thể hiện trong giai đoạn tín dụng yếu sẽ phát huy tối đa trong giai đoạn phục hÓi. Rủi ro đầu tư trong giai đoạn 2024-2025 theo nhóm phân tích chính là sự phục hÓi của tín dụng là tương đối chậm so với dự báo, đặc biệt là dư nợ dành cho nhóm khách hàng cá nhân. Điều này có thể khiến NIM của các ngân hàng bán l¿ như VPB, VIB,...không thể phục hÓi như dự báo. Ngoài ra, chất lượng tài sản cũng cần tiếp tục được theo dõi vì đang tiệm cận vùng đỉnh quý 3/2023. KHÁNH MINH BỨC TRANH NGÂN HÀNG NIÊM YẾT: Lợi nhuận giảm, nợ xấu tăng nhẹ “Tăng trÞçng tÊn dÝng (TTTD) toàn ngành chË đạt 0.98% so væi cuÕi năm 2023 tÊnh đÅn hÅt Q1/2024. Tì lÈ nợ xấu và nợ nhÏm 2 các ngân hàng niÃm yÅt (NHNY) cuÕi quý 1/2024 . Chúng tôi dã báo lợi nhuận sau cÛa các ngân hàng theo dÑi sÁ tăng 21.8% trong năm 2024”- NhÏm phân tÊch công ty chứng khoán MBS nhận định. DƯ NỢ MỚI ĐẠT 11% GDP Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến n·m 2030 đặt mục tiêu, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP (trong đó dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 20% GDP) vào n·m 2025 và đạt tối thiểu 58% GDP (trong đó dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP) vào n·m 2030. Sau giai đoạn t·ng trưæng bùng nổ 20182021, khủng hoảng thị trường trái phiếu xảy ra vào n·m 2022, të lệ dư nợ giảm từ 16% xuống khoảng 11% GDP. Hiện, të lệ này chưa có chiều hướng đi lên. Tại hội thảo “Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tới 2030: Góc nhìn từ xếp hạng tín nhiệm” do VnEconomy phối hợp với Moody’s Ratings và VIS Rating tổ chức, GS.TS Hoàng V·n Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội, cho rằng, thị trường trái phiếu so với GDP khoảng 11% nhưng so tổng vốn huy động thì quy mô trái phiếu còn nhỏ hơn nữa. Vốn trái phiếu khoảng 8% so với tín dụng, các doanh nghiệp hiện nay chưa tiếp cận đÙng nghĩa thị trường vốn mà vẫn thông qua ngân hàng huy động vốn ngắn hạn. “Đối với Việt Nam, trái phiếu doanh nghiệp còn có vai trò quan trọng hơn nữa, các doanh nghiệp đang bước vào giai đoạn phục hÓi sản xuất, trước không có đơn hàng giờ đã có đơn hàng. Nhiều doanh nghiệp muốn mæ rộng sản xuất kinh doanh nhưng khó tiếp cận nguÓn vốn vay ngân hàng dù đang r¿. Tín dụng khó thì phải trông chờ vào trái phiếu. Doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu thì phải có độ tin tưæng để khách hàng yên tâm”, ông Cường cho biết. Ông Trần Lê Minh, Tổng Giám đốc CTCP Xếp hạng tín nhiệm đầu tư Việt Nam VIS Rating cho rằng, quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam không hề b¾. So với các nước trong khu vực, chÙng ta rơi vào khoảng 47 të USD cao hơn Philippines, Indonesia nhưng nhỏ hơn Malaysia và Thái Lan. Tuy nhiên, mục tiêu n·m 2030 dư nợ trái phiếu phải đạt 25% GDP là rất khó. CÒN NHIỀU ĐIỂM NGHẼN, RỦI RO “Nếu Việt Nam chỉ t·ng trưæng GDP tốc độ bình quân 5,5 - 6% cho 8 n·m tới thì quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ vào khoảng 160-170 të USD, t·ng 3,5 lần so với quy mô hiện tại. LÙc đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam sẽ tương đương với Malaysia. Bình quân 8 n·m tới, mỗi n·m Việt Nam phải phát hành mới khoảng 370 nghìn të trái phiếu, tương đương kết quả n·m 2020 - n·m đỉnh cao trước khi bùng nổ những vấn đề trên thị trường. Đây thực sự là mục tiêu khó kh·n, ông Minh nhấn mạnh. Dù kỳ vọng thị trường sẽ có bước phát triển, tiến vào chu kỳ mới từ n·m 2024, nhưng ông Nguyễn Đình Duy, Giám đốc, chuyên gia phân tích cao cấp Khối xếp hạng và Nghiên cứu VIS Rating cũng chỉ ra, điểm nghẽn về minh bạch, phân hoá rủi ro, xác định giá trái phiếu, hay thiếu vắng nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp. Cụ thể, mức độ minh bạch thông tin và chất lượng của các đợt phát hành còn yếu. Theo thống kê của VIS Rating, có 20% các doanh nghiệp trên thị trường không có hoạt động kinh doanh cốt lõi vẫn phát hành trái phiếu để huy động vốn. Những doanh nghiệp này sẽ gặp vấn đề về minh bạch thông tin và khả n·ng trả nợ k¾m hơn doanh nghiệp khác với të lệ chậm trả lên đến 38%. Đặc thù rủi ro của từng loại hình trái phiếu cũng chưa có sự phân hoá rõ ràng, 67% trái phiếu trên thị trường không có tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, không hẳn những trái phiếu có tài sản đảm bảo có ít rủi ro hơn. Nhiều tài sản đảm bảo không có khả n·ng thanh khoản, chuyển đổi thành tiền để khi xảy ra rủi ro cho trái chủ. Các doanh nghiệp có thể sử dụng chứng khoán, bất động sản hay dự án hình thành trong tương lai để làm tài sản đảm bảo. Dù có tài sản đảm bảo là bất động sản, nhưng bà Thái Thị Quỳnh Như, Nghiên cứu viên cao cấp Viện nghiên cứu Bất động sản Việt Nam chỉ ra, vẫn có một số doanh nghiệp mất khả n·ng chi trả khi có rủi ro xảy ra. THUỲ DƯƠNG MÝc tiÃu 2030 cho thị trÞờng trái phiÅu Để đạt mÝc tiÃu nâng dÞ nợ trái phiÅu doanh nghiÈp năm 2030 lÃn tÕi thiểu 25% GDP, mỗi năm, ViÈt Nam phải phát hành mæi khoảng 370 nghìn tì đồng trái phiÅu. Theo chuyÃn gia, đây là mÝc tiÃu thãc sã khÏ khăn. Thị trÞờng trái phiÅu so væi GDP khoảng 11%, nhÞng so tổng vÕn huy động chÞa đạt mức này (ẢNH MINH HOẠ) “Bình quân 8 năm tới, mỗi năm Việt Nam phải phát hành mới khoảng 370 nghìn tỷ trái phiếu, tương đương kết quả năm 2020 - năm đỉnh cao trước khi bùng nổ những vấn đề trên thị trường. Đây thực sự là mục tiêu khó khăn”. Tổng giám đÕc VIS Rating nhận định
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==