9 n Thứ Năm n Ngày 25/4/2024 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ thành phố Điện Biên Phủ. Cùng đi tham quan các di tích, ông Phạm Văn Thắng, Trưởng Phòng Quản lý du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên cho biết, xác định giá trị, ý nghĩa và vai trò quan trọng của di tích chiến trường Điện Biên Phủ, trong những năm qua, công tác bảo tồn, tôn tạo di tích Chiến trường Điện Biên Phủ đã được Đảng, Chính phủ mà trực tiếp là tỉnh Điện Biên nỗ lực, tích cực thực hiện. Theo ông Thắng, Di tích Chiến trường Điện Biên Phủ hiện nay đã trở thành tượng đài lịch sử, tô điểm cho truyền thống hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Các di tích thành nơi khắc ghi cống hiến, hy sinh của các tướng lĩnh, cán bộ, chiến sỹ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và quân dân cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ. Qua tham quan, chúng tôi thấy rằng, các di tích lịch sử Chiến dịch Điện Biên Phủ vừa được bảo tồn nguyên trạng, vừa “vĩnh cửu hóa” một số hạng mục như lời ông Thắng nói. Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng, lán và nơi làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái… được bảo tồn nguyên vẹn. Các lán được lợp bằng lá cọ, ngăn giữa các phòng được dùng bằng tre nứa. Hầm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hầm của các cơ quan được bê tông kiên cố… Đồi A1, Hầm tướng Đờ Cát … được bảo tồn vĩnh cửu hóa bằng bê tông. Ngoài ra, Đường Kéo pháo bằng tay; Trận địa pháo 105 ly của Đại đội 806 (Tiểu đoàn 954, Trung đoàn 45); Bãi họp các quân binh chủng tuyên bố chiến thắng… được xây dựng kiên cố. Đặc biệt, tỉnh Điện Biên đã đầu tư xây dựng, hoàn thành giai đoạn 2 công trình Nhà Bảo tàng chiến thắng Điện Biên Phủ, trưng bày gần 1.000 hiện vật gốc, một số tài liệu, ảnh, tái hiện một cách sinh động, rõ nét cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta. Điểm nhấn quan trọng thu hút khách du lịch tham quan là bức tranh Panorama tái hiện Chiến dịch Điện Biên Phủ được vẽ bằng chất liệu sơn dầu, bố cục hình tròn, dài 132m, cao 20,5m, đường kính 42m với tổng diện tích là 3.225m2. Đây là tác phẩm nghệ thuật độc đáo của nhiều lĩnh vực như hội họa, sắp đặt, âm nhạc, lịch sử, điêu khắc... mang tầm cỡ thế giới được du khách đặc biệt yêu thích. CÔNG VIÊN THỰC CẢNH TRONG TƯƠNG LAI Dù bận nhiều công việc chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, nhưng ông Vừ A Bằng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên vẫn dành thời gian dẫn chúng tôi thăm Bảo tàng Điện Biên Phủ. Vừa thăm các hạng mục, hiện vật được trưng bày, ông Bằng vừa chia sẻ: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, du lịch của Điện Biên đã và sẽ phát triển trên cơ sở khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của địa phương. Trong đó, trọng tâm là khai thác các tiềm năng về lịch sử, văn hóa nhằm đưa Điện Biên trở thành điểm đến hấp dẫn. “Chúng tôi xác định bảo tồn, trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử, đặc biệt di tích Chiến trường Điện Biên Phủ là nhiệm vụ quan trọng nhất. Trong đó, chúng tôi đang thu hút đầu tư xây dựng công viên thực cảnh, giới thiệu toàn cảnh về Chiến trường Điện Biên Phủ, phát huy nét văn hóa đặc sắc của dân tộc để tạo nên hệ sinh thái du lịch đồng bộ, thu hút du khách, đưa kinh tế của tỉnh phát triển”, ông Bằng cho hay. Về định hướng tương lai, UBND tỉnh Điện Biên đã xây dựng “Đề án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ đến năm 2030”. Ông Bằng nói: “Đề án hướng tới tái hiện cảnh quan lịch sử, hình ảnh chiến trường tại các điểm di tích, tăng tính thuyết phục, hấp dẫn cho di tích, tạo nên một quần thể di tích tương xứng với tầm vóc vĩ đại của Chiến thắng Điện Biên Phủ. Đề án cũng đặt mục tiêu khai thác những giá trị văn hóa đa dạng, phong phú của đồng bào các dân tộc Điện Biên để thu hút khách du lịch, đưa kinh tế Điện Biên ngày một phát triển”, ông Bằng cho biết thêm. (Còn nữa) phù hợp văn hóa truyền thống” Từ ngày 3-6/5, Điện ảnh Quân đội nhân dân tổ chức Tuần phim kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tại rạp chiếu phim Điện ả nh Quân đội nhân dân (Lý Nam Đế, Hà Nội). Tuần phim trình chiếu 8 bộ phim, bao gồm 4 phim tài liệu do Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất là Hùng ca Điện Biên Phủ, Cột mốc vàng Điện Biên Phủ, Nhìn lại Điện Biên, Điện Biên Phủ trận quyết chiến lịch sử. Các tác phẩm còn lại là phim truyện điện ảnh do đơn vị và các hãng phim trong nước sản xuất: Hoa ban đỏ, Đào, phở và Piano, Sống cùng lịch sử, Ký ức Điện Biên. Sau lễ khai mạc tối 3/5, phim tài liệu Hùng ca Điện Biên Phủ của đạo diễn Nguyễn Quang Quyết chiếu mở màn. Đây là bộ phim mới nhất do Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất, do nhà văn Hà Đình Cẩn viết kịch bản, NSND Lê Thi biên tập. “Hùng ca Điện Biên Phủ ca ngợi vai trò của những người chiến sĩ trong mặt trận đặc biệt - mặt trận văn hóa văn nghệ. Phim tập trung vào các nghệ sĩ, văn công, các họa sĩ sáng tác ngay trên chiến trường và các phóng viên mặt trận. Họ chính là nốt nhạc trong bản hùng ca lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu mang tên Điện Biên Phủ”, đạo diễn Nguyễn Quang Quyết chia sẻ. Phim sử dụng những bài hát gắn liền với chiến dịch như Hò kéo pháo (nhạc sĩ Hoàng Vân), Trên đồi Him Lam (nhạc sĩ Đỗ Nhuận),… Cùng chiếu trong ngày khai mạc là Hoa ban đỏ - phim truyện điện ảnh được Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất cách đây 30 năm, nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Hoa ban đỏ được khán giả yêu mến nhờ những cảnh quay giàu cảm xúc. Thời điểm sản xuất 1994, bộ phim được đầu tư dàn dựng hoành tráng với những đại cảnh hàng nghìn người tham gia. Trong tuần phim kỷ niệm, Hoa ban đỏ được trình chiếu với chất lượng hình ảnh gốc từ phim nhựa, đem đến những cảm xúc chân thực cho khán giả. NGỌC ÁNH Hùng ca Điện Biên Phủ mở màn tuần phim đặc biệt Di tích Sở chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ được bảo tồn nguyên vẹn “Công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích Chiến thắng Điện Biên Phủ tới đây sẽ tiếp tục có nhiều bước tiến, kết quả khởi sắc. Chúng tôi quyết tâm từng bước đưa Điện Biên trở thành một trong những trung tâm trọng điểm về du lịch lịch sử, văn hóa, sinh thái, tâm linh và nghỉ dưỡng của khu vực Trung du miền núi phía Bắc”. Ông VỪ A BẰNG Không có tiêu chuẩn chung nào cả. Đức Phật không nói về việc phải tạo ra hay dựa vào hình tượng gì để mà thờ cúng, tu hành. Chính các tông phái hay truyền thống Phật giáo đã sáng tạo ra cách thức xây dựng của riêng họ, dựa theo triết lý giải thích Kinh Phật của riêng họ, đáp ứng nhu cầu diễn tả niềm tin của riêng họ, và dựa theo điều kiện văn hóa phù hợp với chính họ. Đến Nhật Bản, Myanmar, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia…, ta có thể thấy rõ sự khác biệt đó trong các pho tượng cổ. Sự đa dạng về các loại tượng Phật đã tạo ra nhiều sắc màu trong các nền văn hóa Phật giáo, tất cả đều đã trở thành di sản quý của nhân loại. Nhưng nếu thiếu triết lý riêng dựa trên sự am hiểu sâu sắc, người ta sẽ rơi vào sao chép, làm nhái, thổi phồng, đua tranh tạo ra những sản phẩm vừa kém giá trị thẩm mỹ, vừa khuếch đại sự mê tín và còn gây ra sự lãng phí tài nguyên rất lớn. Chưa kể là việc xây các pho tượng Phật quá lớn làm ảnh hưởng đến cảnh quan nói chung của cộng đồng xã hội vốn không phải ai cũng tin theo hay mến mộ Phật giáo. Điều này làm ảnh hưởng đến sự hài hòa của các xã hội nơi có sự đa dạng về tôn giáo. Một số người nói tượng Phật khổng lồ là biểu tượng văn hóa, góp phần định hình bản sắc văn hóa và thu hút du khách. Ông có nghĩ vậy không? Văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa của nhiều mẫu hình văn hóa xuất phát từ hiện thực đa dân tộc và luôn diễn ra các hoạt động trao đổi văn hóa. Bản sắc văn hóa Việt Nam cũng là sự chưng cất các nét tinh túy của nhiều mẫu hình văn hóa khác nhau. Phật giáo có những đóng góp lớn, nhưng không phải là đại diện cho toàn bộ bản sắc văn hóa Việt Nam. Mặt khác, triết lý truyền thống của người Việt là sống hòa đồng vào thiên nhiên. Trong suốt lịch sử, nhiều công trình xây dựng nói chung, ngôi chùa của Phật giáo nói riêng, thường khiêm nhường, với chiều cao không vượt lên ngọn cây. Không phải lý do là thiếu vật lực, yếu về trình độ kiến trúc hay chiến tranh, mà chính triết lý sống hài hòa, giản dị đã là một phần của bản sắc văn hóa. Xây dựng tượng Phật khổng lồ không phù hợp với văn hóa truyền thống và cũng không phải là góp phần cho xây dựng biểu tượng văn hóa Việt Nam. Còn vấn đề thu hút du khách thì chính điều đó đã nghiêng nhiều về các tính toán lợi ích kinh tế, mà tại đó mục đích đã không còn thuần túy là vì Phật giáo nữa. Việc xây dựng tượng Phật khổng lồ đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn. Theo ông điều này thể hiện sự phát triển, phồn thịnh về kinh tế? Chỉ một phần cho ta biết điều đó. Không hội tụ đủ các nguồn lực tài chính khổng lồ không thể tạo ra các công trình ngoại cỡ. Nhưng cần phải xem nguồn tiền xây công trình đến từ đâu và rằng việc xây dựng các công trình ngoại cỡ như vậy có thực sự vì chính Phật giáo hay không. Ngày xưa, việc xây một ngôi chùa thường dựa vào sự đóng góp của nhân dân địa phương. Nơi nào nhiều người mến mộ Phật giáo thì việc vận động đóng góp xây chùa sẽ thuận lợi. Ngày nay, một công trình Phật giáo có thể huy động tiền từ nhiều nguồn khác nhau, ở nhiều địa phương khác nhau, bởi nhiều nhân tố khác nhau vốn mưu cầu nhiều mục đích khác nhau. Nếu một quốc gia có sự phồn thịnh về kinh tế, người ta phải thấy được sự gia tăng chất lượng mọi mặt trong cuộc sống của nhân dân, chứ không chỉ đánh giá qua việc xuất hiện thêm những công trình xây dựng bê tông cốt thép ngoại cỡ. Cảm ơn ông. TRÚC MAI (thực hiện) Hùng ca Điện Biên Phủ của đạo diễn Nguyễn Quang Quyết chiếu mở màn tuần phim “Làm tượng lớn như một sự kiện kỳ thú để thu hút người ta đến với Phật giáo thì cũng chỉ được một vài lần. Sự hiếu kỳ được thỏa mãn là người ta lại đi tìm cái mới hơn, cái lạ hơn, cái to lớn hơn. Điều thực sự cần làm để thu hút người ta đến với Phật giáo là làm sao chia sẻ trí tuệ, đạo đức và các giải pháp bền vững mà Đức Phật đã nêu ra đối với mọi vấn đề mà đã là con người thì sẽ phải đối mặt. Người ta thấy được các giá trị ấy cốt lõi và bản chất ấy, tự khắc sẽ ở lại, gắn bó sâu sắc với Phật giáo”. Tiến sỹ HOÀNG VĂN CHUNG
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==