Báo Tiền Phong số 363

13 n Thứ Hai n Ngày 29/12/2025 Tại KCN Hải Hà, Công ty TNHH KCN Hải Hà, chủ đầu tư hạ tầng, được xem là một trong những đơn vị đầu tiên trong tỉnh chủ động triển khai các giải pháp kiểm soát phát thải, giảm phụ thuộc năng lượng hóa thạch bằng cách đồng ý cho các nhà đầu tư thứ cấp lắp đặt điện mặt trời áp mái. Chủ trương này vừa đáp ứng định hướng chuyển đổi năng lượng của quốc gia và tỉnh, vừa mở ra một “đường băng” mới để doanh nghiệp trong KCN tiếp cận chuỗi cung ứng xanh. ĐIỆN MẶT TRỜI ÁP MÁI: “TẤM HỘ CHIẾU XANH” ĐỂ GIỮ ĐƠN HÀNG Từ chủ trương của chủ đầu tư hạ tầng, Công ty TNHH Công nghệ kỹ thuật Ngân Hà đã triển khai dự án điện mặt trời áp mái với tổng mức đầu tư khoảng 100 tỷ đồng. Theo kế hoạch, hệ thống tấm pin được lắp đặt trên mái nhà xưởng sản xuất, diện tích trên 160.000m3, công suất phát điện trên 20.000kW. Dự án dự kiến vận hành trong tháng 11/2025 và có thể đáp ứng khoảng 30% tổng điện năng tiêu thụ của Công ty. Lãnh đạo doanh nghiệp cho biết, đầu tư điện mặt trời áp mái không chỉ giúp tận dụng hiệu quả “tài nguyên” là mái lợp nhà xưởng để tạo ra nguồn điện sạch, giảm chi phí sản xuất, mà còn là điều kiện quan trọng để đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường xuất khẩu. Nhiều đối tác từ châu Âu và Hoa Kỳ ngày càng yêu cầu sản phẩm phải có chứng chỉ khí thải, đáp ứng các tiêu chuẩn liên quan cơ chế điều chỉnh carbon (CBAM). Nếu không có các tiêu chí này, hàng hóa - trong đó có sản phẩm dệt may của doanh nghiệp trong KCN, có nguy cơ bị đánh thuế cao dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong toàn bộ quy trình sản xuất. Trong câu chuyện đó, điện mặt trời áp mái không chỉ là “bài toán kỹ thuật” về nguồn cung điện, mà dần trở thành “tấm hộ chiếu xanh” giúp doanh nghiệp giữ đơn hàng, giữ thị trường và nâng năng lực cạnh tranh. Khi nhiều chuỗi cung ứng toàn cầu chuyển mạnh sang tiêu chí xanh hóa, những nhà máy không chứng minh được lộ trình giảm phát thải sẽ đối mặt rủi ro bị gạt khỏi cuộc chơi. TỪ XỬ LÝ BÙN THẢI PHÁT ĐIỆN ĐẾN MỤC TIÊU KCN SINH THÁI KCN Hải Hà hiện có lợi thế đặc biệt là lượng mái lợp nhà xưởng rất lớn. Các doanh nghiệp trong KCN đang tạo ra hàng triệu mét vuông mái có khả năng lắp đặt hệ thống pin năng lượng mặt trời công suất cao. Với mức hấp thu năng lượng mặt trời ở Việt Nam khoảng 4,58kWh/m3/ngày, nếu tận dụng tốt bề mặt mái lợp, mỗi ngày có thể tạo ra lượng điện đáng kể, đảm bảo một phần hoạt động sản xuất - kinh doanh của các nhà máy; qua đó giảm chi phí điện năng và giảm thiểu tác động môi trường. Từ kết quả bước đầu của dự án điện mặt trời áp mái, chủ đầu tư hạ tầng KCN Hải Hà tiếp tục khuyến khích các nhà đầu tư thứ cấp mở rộng sử dụng năng lượng tái tạo, đồng thời thúc đẩy các dự án giảm phát thải trong quá trình sản xuất. Đáng chú ý, KCN đang định hướng đưa một dự án khoa học - kỹ thuật bảo vệ môi trường vào hoạt động thử nghiệm theo mô hình kinh tế tuần hoàn: xử lý bùn thải để sản xuất hơi nước, sau đó sử dụng hơi nước để phát điện. Nếu triển khai hiệu quả, mô hình này vừa giải quyết vấn đề chất thải công nghiệp, vừa tạo thêm nguồn năng lượng phục vụ sản xuất, tăng hiệu suất sử dụng tài nguyên. Ông Wuxian Hong, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Khu công nghiệp Hải Hà, cho biết doanh nghiệp đang nghiên cứu và có kế hoạch xin chuyển đổi chủ trương xây dựng dự án nhà máy điện than công suất 2.100MW thành dự án nhà máy điện sử dụng năng lượng mới trong KCN Hải Hà. Đây là một tín hiệu cho thấy chuyển đổi năng lượng không chỉ dừng ở quy mô từng nhà máy, mà có thể mở rộng sang câu chuyện nguồn điện phục vụ toàn khu, hướng tới cấu trúc năng lượng sạch hơn. Không riêng KCN Hải Hà, nhiều KCN khác trên địa bàn tỉnh cũng đang được định hướng phát triển theo mô hình KCN sinh thái, đặt ra các tiêu chuẩn cao về môi trường như KCN Bắc Tiền Phong, KCN Nam Tiền Phong, KCN Sông Khoai. Theo ông Trương Mạnh Hùng, Trưởng Ban Quản lý KKT tỉnh, Quảng Ninh đang thúc đẩy chuyển đổi năng lượng theo hướng tăng trưởng xanh, tập trung vào điện gió và điện khí LNG để giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch. Theo quy hoạch điện VIII, Quảng Ninh được bổ sung 5.000MW điện gió ngoài khơi và trên bờ; đồng thời tỉnh khuyến khích chuyển đổi các dự án nhiệt điện than sang điện khí, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững trong giai đoạn tới. Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050, việc đưa năng lượng xanh vào các KCN là nhiệm vụ cấp bách, đồng thời là giải pháp nền tảng để công nghiệp phát triển theo hướng sạch hơn, ít phát thải hơn. Từ những mái nhà xưởng phủ pin mặt trời, tới các mô hình xử lý chất thải phát điện, Quảng Ninh đang từng bước định hình hệ sinh thái sản xuất xanh, sạch, bền vững, biến áp lực giảm phát thải thành động lực đổi mới và nâng chất lượng tăng trưởng. HOÀNG DƯƠNG Năng lượng xanh lan tỏa trong các khu công nghiệp Quảng Ninh Triển khai Nghị quyết Đại hội XVI, Quảng Ninh thúc đẩy “xanh hóa” các khu công nghiệp bằng điện mặt trời áp mái và các mô hình giảm phát thải theo kinh tế tuần hoàn. Tại KCN Hải Hà, dự án điện mặt trời 20.000kW dự kiến vận hành tháng 11/2025, vừa tiết kiệm chi phí, vừa giúp doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn carbon để giữ thị trường xuất khẩu. Các tấm pin năng lượng mặt trời được lắp đặt trên mái lợp nhà xưởng sản xuất tại KCN Hải Hà Quảng Ninh tăng tốc thu hút dự án năng lượng xanh Quảng Ninh những năm qua đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội theo hướng nhanh, mạnh và bền vững, ưu tiên các dự án công nghệ cao, hiện đại, thân thiện môi trường, kiên định quan điểm không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI nhiệm kỳ 2025,2030 xác định duy trì đà tăng trưởng cao, ổn định dài hạn, lấy đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, kinh tế tuần hoàn và kinh tế số. Trên tinh thần đó, tỉnh chỉ đạo các sở, ngành và địa phương tập trung tháo gỡ vướng mắc, tạo điều kiện cho các dự án năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, trong đó có Dự án Nhà máy điện khí LNG Quảng Ninh tại phường Cửa Ông. Dự án do liên danh Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam, Công ty CP Cơ khí và Lắp máy Việt Nam, Tokyo Gas và Tập đoàn Marubeni thực hiện. Giai đoạn 1 gồm nhà máy điện khí công suất 1.500MW, hệ thống cảng bến đáp ứng khoảng 1,2 triệu tấn LNG mỗi năm và các hạng mục hạ tầng phụ trợ, tổng mức đầu tư trên 2,2 tỷ USD. Sau điều chỉnh, dự án có tổng diện tích gần 110ha, thuộc danh mục trọng điểm quốc gia về năng lượng trong Quy hoạch điện VIII. Đến nay, chủ đầu tư đã hoàn thiện thiết kế san nền, hồ sơ mời thầu tổng thầu EPC, nộp hồ sơ thuê đất, hoàn thành giải phóng mặt bằng và các thủ tục phê duyệt dự án, đánh giá tác động môi trường, đồng thời tiếp tục làm việc với EVN để thống nhất hợp đồng mua bán điện. Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh tại Quyết định 768 ngày 15/4/2025, Quảng Ninh được bố trí các nguồn điện quy mô lớn, đa dạng, từ điện gió, điện mặt trời đến điện khí LNG giai đoạn 2026 - 2030, tạo dư địa thu hút làn sóng đầu tư năng lượng xanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xanh của tỉnh. HOÀNG DƯƠNG Số hóa quản lý tài nguyên, ranh giới mỏ Cùng với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, Tập đoàn Công nghiệp Than, Khoáng sản Việt Nam đẩy mạnh số hóa công tác quản lý tài nguyên, ranh giới mỏ nhằm nâng cao tính minh bạch, chính xác và kiểm soát chặt khai thác theo thiết kế. Sau hợp nhất hai mỏ lộ thiên Đèo Nai và Cọc Sáu, Công ty CP Than Đèo Nai, Cọc Sáu, TKV đứng trước yêu cầu quản trị ranh giới khai trường mở rộng trên 20km2, địa hình phức tạp, nhiều khu vực tiếp giáp đơn vị bạn và không gian đô thị phát triển nhanh. Đơn vị được xác định là trọng điểm triển khai số hóa quản lý ranh giới mỏ để giảm nguy cơ chồng lấn, vượt ranh giới. Từ đầu năm 2025, phòng Kiểm soát nội bộ và bảo vệ của công ty ứng dụng Google Sheet để quản lý khoảng 300-400 lượt phương tiện ra, vào mỏ mỗi ngày. Theo anh Nguyễn Tuấn Anh, Đốc công phòng Kiểm soát nội bộ và bảo vệ, ứng dụng dễ thao tác, cài đặt trên nhiều thiết bị có internet, giúp một nhân viên bảo vệ có thể giám sát toàn bộ lượt phương tiện. Trên nền tảng công nghệ thông tin, công tác giám sát mỏ được tăng cường bằng thiết bị hiện đại và phần mềm chuyên dụng như đo đạc ranh giới bằng công nghệ định vị độ chính xác cao, UAV bay chụp hiện trạng định kỳ, hệ thống hơn 400 camera phục vụ giám sát sản xuất, an toàn, tài nguyên, ranh giới và an ninh trật tự trong, ngoài khai trường. Tại Công ty Than Quang Hanh, TKV, đơn vị quản lý ranh giới khai thác dự án xuống sâu mỏ Ngã Hai trên diện tích 13,76km2, áp dụng mô phỏng trực quan đường lò, tầng khai thác và theo dõi ranh giới theo thời gian thực để ngăn chồng lấn, vượt phạm vi thiết kế. TKV cũng đang xây dựng kho dữ liệu tập trung về bảo vệ tài nguyên, ranh giới mỏ, thí điểm camera AI tự động nhận diện người, phương tiện, cảnh báo xâm nhập, hướng tới giám sát tập trung tại Trung tâm điều hành sản xuất ở Quảng Ninh. HOÀNG DƯƠNG Theo số liệu của Cục Hải quan, trong tháng 11, Việt Nam nhập khẩu khoảng 18.350 xe ô tô nguyên chiếc với trị giá hơn 455 triệu USD, tăng 12,3% về lượng so với tháng trước và là mức cao nhất kể từ tháng 8. Cơ cấu nhập khẩu cho thấy ô tô dưới 9 chỗ ngồi giữ vai trò chủ đạo. Trong 11 tháng, Việt Nam nhập khoảng 143.000 xe dưới 9 chỗ, chiếm gần 75% tổng lượng ô tô nguyên chiếc. Phân khúc này phản ánh sát nhu cầu thị trường, khi người tiêu dùng vẫn ưu tiên các dòng xe phục vụ đi lại cá nhân và gia đình như SUV, MPV và xe đa dụng cỡ nhỏ. Xét theo thị trường xuất xứ, nguồn cung ô tô nguyên chiếc của Việt Nam tập trung chủ yếu tại ba quốc gia châu Á gồm Indonesia, Thái Lan và Trung Quốc, với tổng lượng xe nhập khẩu từ ba thị trường này chiếm trên 90% cả nước. Trong 11 tháng năm nay, lượng xe nhập khẩu từ Indonesia đạt khoảng 72.000 chiếc, tăng khoảng 11% so với cùng kỳ năm ngoái. Thái Lan đứng thứ hai về lượng xe nhập khẩu, với khoảng 62.000 xe, tăng nhẹ hơn 3% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý nhất là Trung Quốc, thị trường ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong năm nay. Tính đến hết tháng 11, Việt Nam nhập khẩu khoảng 44.000 xe ô tô nguyên chiếc từ thị trường này, tăng mạnh so với mức khoảng 28.000 xe của cùng kỳ năm ngoái, tương đương mức tăng hơn 50%. Không chỉ tăng nhanh về số lượng, xe nhập khẩu từ Trung Quốc còn nổi bật về giá trị kim ngạch, phản ánh sự mở rộng của các dòng xe đa dạng hơn về phân khúc, từ xe du lịch phổ thông, SUV đến các mẫu xe ứng dụng công nghệ mới. Ngoài ba thị trường chủ lực trên, lượng ô tô nhập khẩu từ Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Âu chiếm tỷ trọng nhỏ, chủ yếu là các dòng xe chuyên dụng hoặc xe có giá trị cao, không tạo tác động lớn về mặt số lượng trong tổng thể nhập khẩu. DƯƠNG HƯNG NHẬP KHẨU Ô TÔ CUỐI NĂM: Xe Trung Quốc bứt tốc mạnh Bức tranh nhập khẩu ô tô của Việt Nam trong những tháng cuối năm đang chứng kiến sự dịch chuyển rõ rệt về nguồn cung. Xe ô tô Trung Quốc tăng vọt và nhanh chóng gia tăng hiện diện trên thị trường nước ta.

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==