“Ở đây, người ta không còn coi sương là hiện tượng thời tiết, mà là một phần của cảnh quan, của nhịp sống”, cô giáo Vân nói, ngay khi tôi bước chân lên nhà sàn. RUỘNG VÀ NHÀ SÀN Buổi sáng, khi bước ra khỏi nhà sàn, sương nằm thấp trên ruộng. Những thửa ruộng xanh rì trải dài, uốn cong theo triền đồi, mềm như nếp áo chàm của người Tày. Màu xanh ấy không non nớt, cũng không phô phai. Đó là thứ xanh đã quen với gió lạnh, với sương dày, với sự chậm rãi của miền núi. Nhìn ruộng ở xã mới Khánh Yên (gộp từ Khánh Yên Hạ, Khánh Yên Trung, Liêm Phú, thuộc huyện Văn Bàn cũ) người ta hiểu vì sao cư dân nơi đây không vội, không gấp. Đất không cho phép vội, và con người cũng không cần nhanh, vì nhịp sống vẫn theo vòng quay của mùa màng, ruộng nương. Gió đông thổi nhẹ qua cánh đồng, mát lành, không cắt da. Cái lạnh đủ để tỉnh táo, đủ để người ta kéo cao cổ áo, nhưng không đủ để khiến lòng người khép lại. Xa xa, suối Nhù chạy ngang bản lặng lẽ hiện ra trong màn sương. Nước trong, nhìn thấy rõ đá cuội dưới đáy. Suối không lớn, không dữ, nhưng có mặt ở khắp bản: nước sinh hoạt, nước nấu ăn, tắm giặt. Xưa kia nước còn đẩy nhịp cối giã gạo, tạo âm thanh nền cho bản làng suốt ngày đêm. Thi thoảng, khi mặt trời cố xuyên qua lớp sương dày, ánh sáng rớt xuống dòng nước thành những vệt mỏng. Mặt suối chớp lên, rồi lại lặng trôi. Cô giáo Vân kể, trẻ con đi học về rửa tay ở suối, người lớn gánh nước, rửa rau. Mọi hoạt động đều quen, đều chậm, đều chính xác như thể đã được huân tập qua nhiều thế hệ. Liêm Phú là nơi người Tày sinh sống lâu đời. Văn hóa ở đây không trưng trổ, không “diễn”. Nó hiện diện tự nhiên trong nếp nhà sàn, trong tiếng nói nhẹ, trong câu then ngọt lịm và tiếng đàn tính thánh thót vang xa; trong cách người ta mời nhau chén nước khúc khắc, trước khi hỏi chuyện. Khi tôi đến ăn cỗ cuối năm của mấy nhà rạp chuyên tổ chức cưới ở địa phương, Thuật và Trình xởi lởi bắt tay từng người. Thuật cười rất tươi, rồi khi đã lên mâm, mới hỏi tôi tới lâu chưa. Mến khách không phải vì người dân bản vùng Liêm Phú này đã quen làm du lịch, giỏi đón khách, mà vì đó là truyền thống. Những homestay nhà sàn nằm nép bên sườn đồi, gỗ đã sẫm màu thời gian. Bậc thang mòn vì bước chân, vì những mùa mưa nắng chồng lên nhau. Đêm ngồi trên sàn gỗ, nghe gió lùa qua vách, nghe tiếng côn trùng, tiếng chó sủa xa xa, bỗng thấy mình nhỏ lại. Ở Liêm Phú, không gian tự nhiên làm con người hạ giọng, hạ nhịp sống, và hạ cái tôi xuống để nghe được tiếng thì thầm của núi rừng. ĐẶC SẢN ĐÃI KHÁCH Và nếu phải chọn một thứ để hiểu rõ nhất văn hóa của người Tày ở Liêm Phú hay một nơi nào của châu Văn Bàn xưa, thì đó là mâm cơm ngày Tết. Không bàn ghế cao. Mâm cơm đan bằng mây tre trên rừng, đặt thấp. Mọi người ngồi quanh, trên những tấm nệm làm từ cỏ lau – thứ cỏ mọc ven suối, ven đồi, được phơi, được nén lại. Ngồi đệm cỏ lau, mới thấy vừa êm, vừa ấm. Cái ấm không chỉ từ thân nhiệt, mà từ cảm giác gần gũi: người với người ngang hàng, không trên dưới, không hình thức giao đãi. Món ăn bày ra không nhiều, nhưng rất đủ. Và mỗi món ăn đều có câu chuyện riêng, đều mang trong mình triết lý sống của cư dân miền núi: hài hòa, cân bằng, không thái quá. Đuông cọ (tô đuổng) lấy từ thân cây cọ, màu trắng sữa như đuông dừa ở miền Nam. Đó là món của rừng. Rang vàng ươm hoặc xào cùng rau rừng, béo nhưng không ngấy, mềm mà thơm. Món ăn không che giấu bản chất của nó, cũng như người Tày mộc mạc, không giấu mình sau những lớp vỏ cầu kỳ. Ai quen thì mê, ai chưa quen thì ngập ngừng – nhưng đã thử thì khó quên. Canh măng chua nấu cá là sự kết hợp tinh tế giữa rừng và suối. Măng vầu đầu mùa, muối chua. Cá làm sạch, ướp vừa tay. Một thứ từ núi, một thứ từ suối, gặp nhau trong nồi canh chua dịu, thanh và ngọt ngào. Ăn đến cuối bát vẫn thấy muốn thêm. Đó không chỉ là món ăn, mà là kinh nghiệm sống được chắt lọc qua thời gian. Xôi nếp cấy trên nương rất lạ. Hạt xôi tròn, mẩy, nhìn như nhộng trứng kiến. Dẻo mà không dính, thơm mà không ngán. Trong hạt xôi có nắng, có gió, có mồ hôi người chỉa hạt, người gặt. Ăn xôi, người ta ăn cả cái gió sương của một mùa vụ. Đĩa bánh chưng đặt ở giữa mâm, trầm mặc. Nếp nương nhuộm đen bằng than cây núc nác – không phải để lạ mắt, mà là một vị thuốc quý. Màu đen không tối, mà sâu. Cắn một miếng, thấy dẻo, bùi, thấy cả sự kiên nhẫn của người gói, người canh bếp. Bánh ăn không chỉ để no, mà để nhớ. Lạp sườn tự làm, trâu khô gác bếp chấm chéo hạt dổi là thứ chỉ có ở vùng Tây bắc xa xôi. Khói của cây rừng ngấm vào từng thớ thịt, trong cả mùa đông. Những món ấy là thứ để dành – cách người miền núi trữ thức ăn cho mùa lạnh, để những ngày có khách đến thăm. Ngồi bên mâm cơm, chén rượu men lá chuyền tay. Rượu cay nhưng hiền. Câu chuyện của Vân, của Trình hay Thuật, trong những lần gặp gỡ thoáng qua, không nhiều lời. Người ta hiểu nhau bằng ánh mắt, bằng cái gật đầu, bằng sự im lặng chiêm ngẫm. Không nhẹ quá để thành hời hợt. Không sang quá để thành xa cách. Chỉ vừa đủ ấm – và chính vì thế mà một lần ăn tết nhà sàn, người ta sẽ nhớ rất lâu. NẺO VỀ Rời Khánh Yên, sương vẫn theo tôi về phố thị. Nó nằm đâu đó trong áo, trong tóc, trong trí nhớ. Một ngày đông không mưa, chỉ có sương, có ruộng xanh, có suối trong, có mâm cơm làm bằng tre nứa và những con người hiền lành. Không ồn ào, không phô trương, nhưng đủ để người ta hiểu rằng: có những nơi không cần quảng bá nhiều, vì chính cách sống họ đã là một lời mời bền bỉ nhất. Từ những mâm cơm làm bằng mây tre, ăn những món của rừng, trên những ngôi nhà sàn đón gió, Khánh Yên đang bước vào du lịch cộng đồng theo cách rất riêng: chậm, chắc và thận trọng. Không chạy theo số lượng, không biến văn hóa thành “màn diễn”, người Tày ở đây chọn cách giữ nguyên nếp sống của mình rồi mở cửa cho du khách bước vào như một người bạn. Nhà sàn vẫn là nhà ở, mâm cơm vẫn là bữa ăn thường ngày, câu hát then vẫn vang lên trong những dịp tự nhiên, không theo kịch bản. Nhưng, như Thuật hay Trình… những trai bản tôi gặp, đang làm chủ rạp cưới, chủ những nhà hàng, homesay ở đây tâm niệm, bài toán đặt ra không chỉ là làm du lịch, mà là giữ cho được hồn cốt văn hóa Tày giữa những thay đổi tất yếu. Khánh Yên vì thế không cần trở thành một điểm đến ồn ào. Nơi này chỉ cần tiếp tục sống đúng với nhịp của nó: ruộng vẫn xanh, suối vẫn trong, mâm cơm vẫn ấm, và con người vẫn hiền như cây trên rừng. Khi đó, du lịch không còn là cuộc ghé thăm vội vã, mà là một sự trở lại – là nẻo về, với những giá trị bền lâu của núi rừng Tây Bắc, nơi văn hóa không cần trưng bày, mà được sống, được gìn giữ và được trao truyền qua từng thế hệ. n Khi du lịch cộng đồng được đặt trên nền tảng bảo tồn – từ kiến trúc nhà sàn, ẩm thực bản địa, trang phục, ngôn ngữ đến tri thức dân gian – thì mỗi người dân vừa là chủ nhà, vừa là người giữ di sản. Lợi ích kinh tế có thể đến chậm hơn, nhưng bền hơn; quan trọng hơn, bản làng không bị đánh mất cái gen văn hoá của chính mình. Chiều về bản ẢNH: NGUYỄN TUẤN Dòng suối Nhù chảy qua Liêm Phú NGÀY ĐÔNG Ở VÙNG LIÊM PHÚ (XÃ KHÁNH YÊN, LÀO CAI) TRỜI ÍT KHI MƯA, CÓ CHĂNG CHỈ LÀ NHỮNG GIỌT SƯƠNG ĐÊM. NĂM NAY TRỜI KHÔ RÁO, CÓ CẢM GIÁC NHƯ BẦU KHÔNG KHÍ ĐÃ ĐƯỢC GẠN LỌC TỪ RẤT LÂU. VÀ SƯƠNG THÌ NHIỀU. SƯƠNG KHÔNG ÀO XUỐNG BẤT CHỢT, MÀ LẶNG LẼ, CÓ LÚC RƠI THÀNH GIỌT TỪ ĐÊM VỀ SÁNG, TỪ SÁNG SANG TRƯA. NGUYỄN TUẤN Ăn Tết www.tienphong.vn PHÓNG SỰ 8 27-28/12/2025 Ẩm thực nhà sàn đậm đà văn hóa dân tộc Tày TRÊN BẢN MÙ SƯƠNG
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==