Báo Tiền Phong số 361-362

Thưa PGS.TS Lâm Bá Nam, ông có nhận định như thế nào về tiềm năng khai thác du lịch tại khu vực đồng bào dân tộc thiểu số? PGS.TS Lâm Bá Nam: Cộng đồng các dân tộc Việt Nam có một kho tàng văn hóa rất phong phú, rất đa dạng. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc cũng là một quốc gia đa văn hóa. Văn hóa là bộ gien xã hội của mọi dân tộc còn có tính bền vững rất cao. Việt Nam được xem như “Đông Nam Á thu nhỏ” với 54 tộc người thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ, mỗi nhóm mang đặc trưng về lịch sử, môi trường cư trú, sinh hoạt, tín ngưỡng và tri thức dân gian. Bên cạnh văn hóa tộc người, các nhóm địa phương tạo nên sắc thái đa dạng hơn nữa. Những giá trị như tính cộng đồng, lòng tự hào, tri thức bản địa và di sản văn hóa phong phú là nền tảng quan trọng để phát triển du lịch văn hóa. Chủ trương hiện nay là phát triển văn hóa đóng vai trò nền tảng, động lực trong sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Do đó, việc bảo tồn, làm giàu và phát huy di sản văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam vừa có ý nghĩa về bảo tồn văn hóa, vừa có ý nghĩa đặc biệt trong sự phát triển kinh tế-xã hội, làm giàu cho sự phát triển của đất nước hôm nay và trong tương lai. Là người đã có rất nhiều năm đồng hành với đời sống văn hóa đồng bào, ông có đánh giá như thế nào về những tác động của hoạt động du lịch, phát triển kinh tế đối với các cộng đồng dân tộc? Việc phát triển du lịch trong thời gian qua đã mang lại hiệu quả tích cực cho kinh tế địa phương và sinh kế của người dân. Tuy nhiên, phải nói rằng bức tranh văn hóa truyền thống đã có nhiều mảng màu bị phai nhạt. Việc triển khai hoạt động du lịch tạo ra những bất cập đối với văn hóa truyền thống các dân tộc. Dễ thấy nhất là văn hóa, di sản bị thương mại hóa, bị vay mượn dẫn đến bản sắc và tính độc đáo riêng có bị lu mờ. Gần đây, dưới sự hướng dẫn của Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam thì các địa phương đã nhận thức một cách đầy đủ hơn về việc gìn giữ nét độc đáo trong văn hóa của các tộc người. Họ đã hiểu rằng chính bản sắc mới tạo nên sự hấp dẫn trong các hoạt động du lịch. Từ đó, nêu cao vai trò của các chủ thể văn hóa trong công tác bảo tồn di sản của dân tộc mình. ĐỂ DU KHÁCH HÒA MÌNH VÀO VĂN HÓA ĐỒNG BÀO Vậy, ông có thể đưa ra một số giải pháp để chuyển tải bản sắc văn hóa dân tộc thành các sản phẩm du lịch? Chúng ta phải xác lập văn hóa như một nguồn lực phát triển, tạo sinh kế cho cộng đồng trong bối cảnh chuyển đổi số hội nhập quốc gia, khu vực và toàn cầu, văn hóa càng phải được nhìn nhận như nền tảng bản sắc, năng lượng sáng tạo và động lực mềm để phát triển bền vững. Mỗi tộc người ở Việt Nam đều có những đặc trưng văn hóa. Thêm vào đó, trong các tộc người lại có rất nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm địa phương là một sắc thái văn hóa, càng làm phong phú thêm tính đa dạng văn hóa của cộng đồng các dân tộc người ở Việt Nam. Chính vì vậy, chúng ta có 54 dân tộc anh em nhưng không chỉ có 54 nền văn hóa mà còn nhiều hơn thế. Nói một cách khác, văn hóa không đứng yên mà luôn luôn vận động cùng với đời sống tộc người trong bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Tiềm năng để phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam từ văn hóa dân tộc là rất dồi dào nhưng vấn đề là chúng ta khai thác như thế nào? Tôi cho là phải đồng hành với đồng bào trong quá trình này, để cùng chạm vào lớp “trầm tích” di sản vật thể và phi vật thể, cần phải được đánh thức, khơi dậy những nét văn hóa truyền thống của đồng bào. Để làm được điều đó thì đầu tiên là phải có cơ chế, có sự đồng thuận và hợp tác từ chủ thể văn hóa, các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, các đối tác nước ngoài. Tôi lấy ví dụ Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam gần đây đã hoạt động rất hiệu quả trong việc quảng bá di sản, tạo ra nơi giao thoa văn hóa giữa các cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Theo xu hướng hiện nay, khách du lịch đang chuyển từ việc ghé thăm và ngắm nhìn sang tham gia trải nghiệm cùng với cộng đồng. Vậy ông có góp ý như thế nào để phát triển loại hình du lịch cộng đồng? Đúng là như vậy. Bản thân tôi cũng muốn được trải nghiệm đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc. Khi lên cao nguyên đá Đồng Văn, tôi thấy du khách muốn tìm hiểu lối sống của người dân tộc bản địa, muốn thực hành lao động sản xuất trên vùng núi đá, muốn tự tay xây ngôi nhà trình tường, xếp đá làm hàng rào… Đó là trải nghiệm hấp dẫn du khách mà chúng ta cần nghiên cứu để đưa vào lộ trình một cách phù hợp. Ngoài các giải pháp kể trên thì chúng ta cần phải ứng xử như thế nào với những chủ thể văn hóa đang nắm giữ những tri thức, tập tục của đồng bào, thưa ông? Con người là chủ thể của văn hóa, sáng tạo. Muốn phát triển văn hóa trước hết phải tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể để các tộc người có điều kiện thực hành văn hóa truyền thống của họ, từ việc hồi sinh chữ viết, nghề truyền thống, lễ hội hay nghi lễ đã mai một, đến việc thực hành, phát huy các yếu tố văn hóa đó trên không gian rộng lớn hơn. Ngoài việc chăm lo cho các nghệ nhân, già làng - những “báu vật nhân văn sống” thì có một lực lượng nữa cũng rất cần quan tâm. Đó là nguồn nhân lực của ngành du lịch. Đầu tiên cần chú trọng công tác đào tạo, nâng cao nhận thức những người làm du lịch để họ hiểu và trân trọng kho tàng văn hóa cộng đồng các dân tộc ta. Tôi cho rằng Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam có thể xem là một trung tâm đào tạo về lĩnh vực này. Xin trân trọng cảm ơn ông. 27-28/12/2025 www.tienphong.vn VIỆC TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠO RA NHỮNG BẤT CẬP ĐỐI VỚI VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC; DỄ THẤY NHẤT LÀ VĂN HÓA, DI SẢN BỊ THƯƠNG MẠI HÓA, BỊ VAY MƯỢN DẪN ĐẾN BẢN SẮC VÀ TÍNH ĐỘC ĐÁO RIÊNG CÓ BỊ LU MỜ, PGS.TS LÂM BÁ NAM (ẢNH), CHỦ TỊCH HỘI DÂN TỘC HỌC VÀ NHÂN HỌC VIỆT NAM, NHẬN ĐỊNH. VIETNAM+ Du lịch văn hóa được xác định là một trong 10 ngành công nghiệp văn hóa trọng điểm trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chị em phụ nữ Thái tập múa dân vũ tại nhà văn hóa thôn bản ẢNH: VIETNAM+ QUẢNG NINH MỞ RỘNG NUÔI TÔM CÔNG NGHỆ CAO, ĐẨY MẠNH NUÔI BIỂN CÓ CẤP PHÉP Theo báo cáo Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Ninh (NN&MT), dự kiến hết năm 2025, diện tích nuôi tôm toàn tỉnh đạt 7.500ha, sản lượng gần 30.000 tấn, chiếm 29,4% tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng. Sản lượng nuôi biển đạt trên 62.000 tấn, tương đương 61% tổng sản lượng nuôi trồng, khẳng định vai trò trụ cột của kinh tế thủy sản trong cơ cấu nông nghiệp địa phương. Quảng Ninh tiếp tục duy trì lợi thế là vùng trọng điểm nuôi tôm phía Bắc với hai đối tượng chủ lực tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Việc định hình các vùng nuôi tập trung tại Tiên Yên, Đầm Hà gắn với quy hoạch tỉnh giúp sản xuất quy mô lớn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư mô hình nuôi khép kín, nuôi nhiều giai đoạn, kiểm soát môi trường và dịch bệnh. Nhiều mô hình cho thấy năng suất tăng 30 đến 50% so với cách nuôi truyền thống. Điển hình, HTX Nuôi tôm công nghệ cao Cẩm Phả tại xã Hải Hòa đang vận hành mô hình nuôi 3 giai đoạn, sử dụng giống từ Đầm Hà và Khánh Hòa, bảo đảm an toàn sinh học. HTX có 12 ao, sản lượng bình quân 35 đến 40 tấn mỗi tháng, tương đương 350 đến 400 tấn mỗi năm, giá bán khoảng 150.000 đồng một kg, dự kiến năm 2026 mở rộng thêm 50ha, tăng ứng dụng tự động hóa và cảm biến giám sát môi trường. Toàn tỉnh cũng ghi nhận diện tích tôm nhiễm bệnh năm 2025 giảm còn hơn 35ha, bằng khoảng 41% so với năm 2024. Ở lĩnh vực nuôi biển, đến đầu tháng 12, các địa phương đã giao khu vực biển cho 817 cá nhân, Sở NN&MT cấp 50 giấy phép, UBND tỉnh ban hành 44 quyết định giao biển cho tổ chức, doanh nghiệp, HTX, góp phần chấm dứt nuôi tự phát. Bà Nguyễn Thị Lệ, Giám đốc HTX Thành Tuân tại đặc khu Vân Đồn cho biết việc được giao hơn 20ha mặt nước đến năm 2050 giúp thành viên yên tâm đầu tư dài hạn. Năm 2026, Quảng Ninh đặt mục tiêu tổng sản lượng nuôi trồng 120.300 tấn, trong đó tôm 36.000 tấn, nuôi biển 73.000 tấn, hướng tới nuôi biển công nghiệp và tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. HOÀNG DƯƠNG YÊN TỬ, VIÊN NGỌC TRÚC LÂM BỪNG SÁNG GIỮA NGÀN XANH Yên Tử, vùng đất linh thiêng trải qua cả nghìn năm lịch sử, được xem là “kinh đô Phật giáo Đại Việt”, nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Từ lâu, câu ca “Trăm năm tích đức tu hành, chưa về Yên Tử chưa thành quả tu” đã trở thành lời nhắc về một trung tâm văn hoá, tâm linh đặc biệt của người Việt. Dù vậy, khoảng hơn hai chục năm trước, diện mạo khu di tích còn đơn sơ, đường sá khó khăn, nhiều ngôi chùa, am tháp xuống cấp, tiêu điều, các hoạt động tâm linh chủ yếu diễn ra riêng lẻ ở từng điểm di tích. Những năm qua, Quảng Ninh cùng các địa phương, đơn vị đã đẩy mạnh bảo tồn và phát huy giá trị di sản nhà Trần gắn với dòng thiền Trúc Lâm. Nhiều hạng mục được nghiên cứu, tu bổ, tôn tạo, phục dựng lễ hội, đồng thời phát triển hạ tầng và dịch vụ để tạo sức hút quanh năm, không chỉ tập trung vào mùa hội xuân. Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Ninh cũng tham gia tích cực, nhất là từ sau năm 2005, góp phần chuẩn hoá đội ngũ tăng ni, nền nếp phật sự và huy động nguồn lực xã hội hoá cho công tác trùng tu. Nhờ đó, nhiều công trình, điểm chùa trong không gian Yên Tử được hoàn thiện, cảnh quan sạch đẹp, nghi lễ bài bản hơn; lượng du khách tăng mạnh, từ vài chục nghìn lên mức hàng triệu lượt mỗi năm trong hơn chục năm trở lại đây. Yên Tử ngày càng khẳng định sức sống bền bỉ của Phật giáo Trúc Lâm với thông điệp hoà hợp, hoà bình và gắn bó với thiên nhiên, trở thành điểm đến văn hoá, tâm linh có sức lan tỏa rộng rãi. HOÀNG DƯƠNG NGUY CƠ THƯƠNG MẠI HÓA DI SẢN XÃ HỘI 17

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==