Báo Tiền Phong số 359

Đề xuất triển khai 1.000 cảm biến khí tượng IoT Cục Khí tượng Thủy văn vừa có buổi làm việc với đại diện Công ty Weathernews (Nhật Bản) nhằm trao đổi về định hướng hợp tác trong khuôn khổ dự án ODA của Chính phủ Nhật Bản, tập trung ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để nâng cao năng lực dự báo khí tượng tại Việt Nam. Weathernews đề xuất nội dung hợp tác thời gian tới gồm triển khai khoảng 1.000 cảm biến khí tượng IoT tại các khu vực còn thiếu dữ liệu, phát triển mô hình dự báo khí tượng AI thế hệ mới tích hợp dữ liệu radar hiện có của Việt Nam. Bên cạnh đó, xây dựng nền tảng vận hành trực quan và cơ chế chia sẻ sở hữu trí tuệ, giúp Việt Nam từng bước làm chủ, phát triển mô hình dự báo trong tương lai. TUỆ MINH Xây dựng khung tài chính giúp quản lý chất thải bền vững Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc phối hợp Sở Nông nghiệp và Môi trường Cần Thơ, Quảng Ninh vừa tổ chức hội thảo nhằm giải quyết thách thức ngày càng tăng của ô nhiễm chất thải nhựa trên các dòng sông, vịnh và khu vực ven biển trên cả nước. Các đại biểu thống nhất, việc quản lý rác thải nổi không chỉ là vấn đề kỹ thuật hay môi trường, mà còn gắn chặt với các yếu tố thể chế, tài chính và tổ chức vận hành dài hạn. Việc xây dựng và áp dụng các định mức kinh tế kỹ thuật phù hợp được xem là điều kiện quan trọng để các mô hình thí điểm có thể từng bước chuyển sang vận hành thường xuyên trong khuôn khổ dịch vụ công của địa phương. Đại diện thành phố Cần Thơ chia sẻ kết quả vận hành và đánh giá hệ thống thu gom rác nổi Interceptor 003 trên sông Cần Thơ. Việc vận hành của tàu gom rác chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như điều kiện thủy văn, hạ tầng bốc dỡ, yêu cầu về dữ liệu, cũng như việc chưa có định mức chi phí và cơ chế tài chính chính thức để duy trì hoạt động lâu dài. Thông qua việc gắn kết giữa sáng kiến đổi mới sáng tạo với khung tài chính thực tế, các giải pháp được triển khai tại Cần Thơ và Quảng Ninh được khuyến nghị nhân rộng ra các tỉnh thành khác trong cả nước. T.M Trồng mới 11.627ha rừng ven biển Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp UBND tỉnh Cà Mau và Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) Việt Nam vừa tổ chức Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Đề án bảo vệ và phát triển rừng vùng ven biển giai đoạn 2021-2030, nhằm đánh giá kết quả giai đoạn 2021-2025 và đề ra nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn tiếp theo. Sau 5 năm triển khai Quyết định 1662/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, công tác bảo vệ và phát triển rừng ven biển đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận với 281.000ha rừng ven biển được quản lý, bảo vệ ổn định, đạt 102% kế hoạch. Hơn 11.627ha rừng được trồng mới, trồng bổ sung và phục hồi (đạt 58% mục tiêu), khoảng 7.900ha rừng được khoanh nuôi xúc tiến tái sinh và 329 triệu cây xanh được trồng phân tán tại các địa phương vùng ven biển góp phần cải thiện sinh thái và hạn chế xói lở. Qua 5 năm thực hiện Đề án cũng ghi nhận nhiều khó khăn, vướng mắc như tác động mạnh của bão, áp thấp nhiệt đới, triều cường, xói lở bờ biển; quỹ đất trồng rừng ngày càng thu hẹp, manh mún; nhiều khu vực chịu ảnh hưởng ô nhiễm, sinh vật gây hại, rác thải ven bờ. Các chuyên gia đề xuất cần nhân rộng các mô hình bảo vệ và phát triển rừng gắn với sinh kế nông - lâm - ngư kết hợp, đồng thời quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng ven biển, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền, vận động người dân chấp hành pháp luật về lâm nghiệp, ký cam kết bảo vệ rừng. Việc giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng phải được tiếp tục đẩy mạnh, nhằm tăng cường quản lý rừng bền vững tại các địa phương. TUỆ MINH Quảng cáo 15 Thứ Năm n Ngày 25/12/2025 ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ LONG THÀNH THÔNG BÁO V/v thông báo thu hồi đất; thông báo kiểm đếm thực địa về đất đai, nhà cửa và tài sản khác gắn liền với đất thu hồi của dự án Dự án mở rộng đoạn cao tốc TP.Hồ Chí Minh - Long Thành đoạn qua xã Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Đề nghị chủ sử dụng thửa đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thuộc các tờ bản đồ của các thửa đất theo danh sách dưới đây: Các thửa đất số 107, 110, 108 tờ bản đồ số 38; Các thửa đất số 210, 225 tờ bản đồ số 39; Các thửa đất số 104, 340, 117, 116, 115, 119 tờ bản đồ số 44; Các thửa đất số 25, 3, 6, 22, 36, 35, 42, 41, 47, 63, 70 tờ bản đồ số 45; Các thửa đất số 4, 11,8,12 tờ bản đồ số 46; Các thửa đất số 101, 102, 103, 104,105, 106, 153, 107, 108 tờ bản đồ số 228; Các thửa đất số 6, 8 tờ bản đồ số 229; Thửa đất số 7 tờ bản đồ số 230; Các thửa đất số 354, 129, 128, 440, 439, 353, 183 tờ bản đồ số 225. Chưa xác định chủ sử dụng: Các thửa đất số 69, 81, 82, 84, 8, 31, 27, 107 tờ bản đồ số 45; Thửa đất số 3 tờ bản đồ số 46; Các thửa đất số 336, 180 tờ bản đồ số 225; Các thửa đất số 372, 359 tờ bản đồ số 230; Thửa đất số 160 tờ bản đồ số 228; Các thửa đất số 115, 111 tờ bản đồ số 38; Thửa đất số 421 tờ bản đồ số 44 Đến liên hệ UBND xã Long Thành, tỉnh Đồng Nai (Đc: đường số 1, Trần Quốc Toản, xã Long Thành, tỉnh Đồng Nai - Số đt liên hệ 0901619538 ĐC Thái). Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thực hiện xong việc gửi thông báo thu hồi đất; thông báo kiểm đếm; thông báo trên báo, phát sóng trên đài phát thanh truyền hình, niêm yết, đăng tải trên Cổng thông tin điện tử mà người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thu hồi không đến liên hệ tại trụ sở của UBND cấp xã Long Thành hoặc Trung tâm phát triển quỹ đất chi nhánh Long Thành. UBND xã Long Thành sẽ phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất chi nhánh Long Thành thực hiện các thủ tục kiểm đếm theo quy định. TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 2 - KHÁNH HÒA THÔNG BÁO Bà Lê Thị Kim Hạnh, sinh năm 1977; Địa chỉ: tổ dân phố Ninh Xuân, phường Cam Phúc Nam, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa (nay là tổ dân phố Ninh Xuân, phường Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa). Liên hệ ngay với Tòa án nhân dân khu vực 2 - Khánh Hòa; địa chỉ: số 04 Phạm Văn Đồng, phường Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa để tham gia tố tụng giải quyết vụ án. Hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày đăng phát thông báo lần đầu tiên mà bà Lê Thị Kim Hạnh không có mặt tại Tòa án nhân dân khu vực 2 - Khánh Hòa thì Tòa án căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. NÂNG TỶ LỆ THU HỒI NHỜ GIÁ KHUNG THỦY LỰC DI ĐỘNG Thực tế sản xuất cho thấy, công nghệ khai thác “đúng địa chất” là yếu tố quyết định hiệu quả thu hồi tài nguyên, nhất là tại các mỏ hầm lò có điều kiện phức tạp. Tại Công ty Than Thống Nhất, trước đây khi áp dụng hình thức chống giữ bằng thủy lực đơn, tỷ lệ thu hồi than chỉ đạt khoảng 40-50%, trong khi công nghệ chống giữ bằng giá xích đạt khoảng 60%. Những năm gần đây, đơn vị chuyển sang áp dụng công nghệ chống giữ bằng giá khung thủy lực di động. Giải pháp này không chỉ giúp nâng năng suất lao động, mà còn tăng tỷ lệ thu hồi và tạo thuận lợi cho việc tách lọc đá ngay tại gương lò. Đối với các vỉa dày, điều kiện địa chất phức tạp, công nghệ giá khung thủy lực di động thể hiện khả năng thích ứng linh hoạt, cho hiệu quả tận thu than cao hơn so với các phương án trước đây. Theo ông Nguyễn Thanh Hà, Quản đốc Phân xưởng Khai thác 6, Công ty Than Thống Nhất, việc áp dụng giá khung thủy lực di động không chỉ góp phần nâng cao năng suất và mức độ an toàn, mà còn giúp tỷ lệ thu hồi than đạt khoảng 90%. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong bối cảnh các mỏ hầm lò ngày càng xuống sâu, đi xa, áp lực mỏ lớn và rủi ro địa chất gia tăng. Không dừng lại ở đổi mới công nghệ, Công ty Than Thống Nhất đồng thời triển khai đồng bộ các biện pháp quản trị tài nguyên, gắn trách nhiệm của đội ngũ lãnh đạo và từng người lao động với chỉ tiêu thu hồi than tại các lò chợ. Công tác quản lý trữ lượng, ranh giới khai thác được siết chặt nhằm hạn chế tình trạng khai thác lệch biên, vượt ranh, để sót tài nguyên hoặc phát sinh tổn thất do quản lý lỏng lẻo. Ở quy mô toàn Tập đoàn, trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ hằng năm, các đơn vị khai thác trong TKV xây dựng sơ đồ công nghệ và trình tự khai thác hợp lý, xác định rõ khối lượng, chất lượng từng khoáng sàng để huy động sản xuất phù hợp. Cùng với đó, các mỏ tăng cường theo dõi biến động địa chất theo từng khu vực khai thác, kịp thời điều chỉnh giải pháp công nghệ và các chỉ tiêu kỹ thuật, qua đó giảm thất thoát trong khai thác. Để tiếp tục đưa tổn thất tài nguyên xuống mức thấp hơn, TKV chỉ đạo các đơn vị tăng cường quản lý tài nguyên gắn với ranh giới khai thác. Không chỉ khối khai thác, các đơn vị sàng tuyển, chế biến và tiêu thụ than cũng được yêu cầu siết chặt kiểm soát khối lượng, chất lượng trong từng khâu công nghệ, bảo đảm “kiểm soát từ đầu nguồn đến đầu ra”, hạn chế tối đa hao hụt trong quá trình trung chuyển, lưu kho và giao nhận. DÙNG CÂN ĐIỆN TỬ HAI CHIỀU KIỂM SOÁT KHỐI LƯỢNG Tại Công ty Kho vận và Cảng Cẩm Phả - đơn vị đảm nhận tiêu thụ phần lớn than cho TKV - công tác quản trị tài nguyên được tổ chức theo hướng bài bản, khép kín. Đơn cử tại Phân xưởng Kho cảng G9 Hóa chất Mông Dương, quy trình giao nhận than được duy trì ổn định trong nhiều năm. Than từ các mỏ được vận chuyển bằng ô tô và băng tải, nhập về kho G9 hoặc xuất thẳng tới các nhà máy nhiệt điện tại Cẩm Phả. Đối với vận tải than bằng ô tô, trung bình mỗi ngày đơn vị vận hành trên 350 chuyến xe, có thời điểm cao điểm tiếp nhận khoảng 500 chuyến. Để quản lý chặt chẽ khối lượng, chất lượng và hạn chế thất thoát, phân xưởng áp dụng hệ thống cân điện tử hiện đại hai chiều. Ông Trần Minh Tuấn, Quản đốc Phân xưởng Kho cảng G9 Hóa chất Mông Dương cho biết, dữ liệu khối lượng than từ hệ thống cân điện tử được truyền trực tiếp về bộ phận điều hành sản xuất của lãnh đạo phân xưởng và các nhà máy nhiệt điện. Việc số hóa, liên thông dữ liệu giúp kiểm soát hiệu quả khối lượng than trong quá trình vận chuyển, nhập kho và xuất cho khách hàng, đồng thời giảm thiểu rủi ro sai lệch, thất thoát. Than là nguồn tài nguyên quý, nguồn năng lượng không tái tạo, vì vậy yêu cầu thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả luôn được đặt lên hàng đầu. Theo thống kê của TKV, trong giai đoạn trước, tổn thất than trong khai thác hầm lò có thời điểm lên tới 40-50%, thậm chí cao hơn tại một số mỏ do điều kiện địa chất phức tạp, gây nhiều hạn chế trong khai thác. Hiện nay, tỷ lệ tổn thất tại các mỏ đang giảm dần nhờ việc lựa chọn công nghệ phù hợp, tăng mức độ cơ giới hóa và nâng cao kỷ luật quản trị tài nguyên, ranh giới khai thác. Thời gian tới, trong điều kiện khai thác ngày càng xuống sâu, đi xa, áp lực mỏ lớn và địa chất phức tạp, TKV cho biết sẽ tiếp tục quan tâm, chỉ đạo bài bản hơn công tác thăm dò, đánh giá trữ lượng tài nguyên. Đặc biệt, thăm dò phục vụ huy động tài nguyên được xác định là nhiệm vụ đi đầu, có tính chất quyết định, tạo cơ sở để khai thác triệt để các vỉa than, kể cả vỉa mỏng hoặc khu vực địa chất khó. Trên nền tảng dữ liệu trữ lượng tin cậy, các đơn vị sẽ có điều kiện nghiên cứu, lựa chọn và áp dụng giải pháp công nghệ phù hợp, bảo đảm an toàn, nâng cao năng suất, tăng sản lượng, hướng tới mục tiêu giảm tổn thất than xuống mức thấp nhất. HOÀNG DƯƠNG Giảm tổn thất tài nguyên trong khai thác than Thời gian qua, các đơn vị khai thác than thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đồng loạt tăng tốc triển khai nhiều giải pháp kỹ thuật và quản trị nhằm giảm tổn thất tài nguyên trong toàn chuỗi, từ khai thác đến sàng tuyển, vận tải và tiêu thụ. Lò chợ áp dụng công nghệ chống giữ bằng giá khung thủy lực di động của Công ty Than Thống Nhất

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==