Báo Tiền Phong số 352

11 n Thứ Năm n Ngày 18/12/2025 XÃ HỘI MẮT XÍCH QUAN TRỌNG TRONG CHUỖI RỦI RO LŨ LỤT Chia sẻ với Tiền Phong, GS.TS Nguyễn Quốc Dũng - Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cho rằng, nếu quy toàn bộ trách nhiệm cho thủy điện về những đợt ngập lụt nghiêm trọng vừa qua là chưa thật sự sòng phẳng. Tuy nhiên, khi mưa dồn dập trùng với thời điểm hồ chứa đã đầy hoặc buộc phải xả khẩn cấp, nguy cơ “lũ kép” lũ tự nhiên cộng hưởng với lũ điều tiết là hoàn toàn có thật. Theo ông Dũng, các trận lũ vừa qua ở miền Trung, Tây Nguyên không còn là những sự kiện thiên tai thông thường, mà phản ánh rất rõ xu hướng cực đoan hóa của mưa lũ do biến đổi khí hậu. Chuỗi lũ lớn liên tiếp xuất hiện trên nhiều lưu vực, từ sông Cầu ở Thái Nguyên, các hệ thống sông tại Huế cho đến sông Ba, nơi tâm điểm là thủy điện Sông Ba Hạ. Ông Dũng cho rằng, dư luận hiện nay có xu hướng “đổ lỗi” cho thủy điện mỗi khi xảy ra lũ lớn. Cách tiếp cận này dễ hiểu về mặt cảm xúc, song không phản ánh đầy đủ bản chất vấn đề. Thực tế cho thấy không phải mọi trận lũ đều liên quan đến hồ chứa. Riêng với trường hợp sông Ba, theo Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, cần tách bạch rõ hai giai đoạn. Ở thời điểm đầu, việc hồ Ba Hạ xả lũ tăng dần rõ ràng có tác động đến tốc độ lũ lên ở hạ du. Tuy nhiên, khi lưu lượng xả đã tiệm cận và sau đó duy trì ở mức “đi bằng lũ đến hồ”, thì hồ chứa gần như hoàn toàn mất khả năng điều tiết. Trong bối cảnh tổng lượng nước đổ về lưu vực sông Ba ước tính vượt 13 tỷ m3 chỉ trong vài ngày, một hồ chứa có dung tích khoảng 160 triệu m3 không thể “gánh” nổi khối lượng nước khổng lồ này. Theo ông Dũng, nguyên nhân khiến nước lũ rút chậm, ngập sâu và kéo dài nhiều ngày nằm chủ yếu ở hạ du. Đó là khả năng thoát lũ ra biển bị hạn chế do cửa sông bồi lấp, hạ tầng giao thông chắn dòng, cùng với thực tế nhiều khu dân cư phát triển tại các vùng trũng thấp. Ông Dũng nhấn mạnh, khi mưa lớn cực đoan trùng với thời điểm hồ đã đầy hoặc phải xả khẩn cấp, nguy cơ lũ kép là hiện hữu. Vấn đề không nằm ở bản thân công trình, mà ở cách thức chuẩn bị, phối hợp giữa các hồ chứa trên cùng lưu vực và chất lượng ra quyết định trong những thời điểm then chốt. “Nếu việc xả lũ có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hồ chứa bậc thang trên thượng nguồn, thì dù không thể triệt tiêu lũ, vẫn có thể làm chậm đỉnh lũ thêm vài giờ. Chỉ vài giờ ấy cũng đủ tạo ra khoảng đệm giúp chính quyền và người dân chủ động hơn trong sơ tán, giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản”, ông Dũng nói. CẦN CẢNH BÁO SỚM, DỄ HIỂU Từ thực tiễn đau xót vừa qua, Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cho rằng, các giải pháp phòng chống lũ cần được nhìn nhận ở tầm chiến lược, thay vì chỉ xử lý tình huống. Trước hết, phương án ứng phó thiên tai và phương án ứng phó tình huống khẩn cấp phải được xây dựng thực chất, không hình thức. Thông tin cảnh báo cần cụ thể, dễ hiểu, chỉ rõ lũ về khi nào, cao đến đâu, khu vực nào nguy hiểm, thay vì những thông báo chung chung khiến người dân bị động. Về quy hoạch, ông Dũng cho rằng, giải pháp hợp lý là điều chỉnh mục tiêu vận hành của một số hồ hiện hữu, hoặc áp dụng cơ chế “thuê dung tích phòng lũ” khi dự báo mưa lớn vượt ngưỡng an toàn. Song song đó, cần trả lại không gian thoát lũ cho sông: rà soát, tháo dỡ các công trình cản dòng, nạo vét các cửa sông bị bồi lấp, thay thế những tuyến giao thông chắn lũ ven biển bằng giải pháp cầu cạn. Ở tầm thể chế, việc nghiên cứu ban hành Luật An toàn đập là bước đi cần thiết để nâng chuẩn quản lý. Quy trình vận hành liên hồ chứa cũng cần được sửa đổi theo hướng linh hoạt, bám sát diễn biến thực tế thay vì cứng nhắc theo các kịch bản định sẵn… Cuối cùng, theo GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, con người vẫn là yếu tố then chốt. Việc đào tạo ngắn hạn nhưng thực chất cho lực lượng làm công tác vận hành hồ chứa và phòng chống thiên tai từ vận hành liên hồ chứa cắt giảm lũ cho hạ du, xây dựng phương án ứng phó tình huống khẩn cấp, đến quan trắc, xử lý số liệu và kỹ thuật xử lý sự cố ngay từ giờ đầu cần được triển khai khẩn trương, trước khi mùa lũ tiếp theo quay trở lại. DƯƠNG HƯNG GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cho rằng, các giải pháp phòng chống lũ cần được nhìn nhận ở tầm chiến lược, thay vì chỉ xử lý tình huống. Thông tin cảnh báo cần cụ thể, dễ hiểu, thay vì những thông báo chung chung khiến người dân bị động. Kỳ cuối: Ứng phó từ sớm, từ xa Mưa lũ cực đoan năm 2025 khiến nhiều khu vực miền Trung ngập nặng TS. Nguyễn Quy Hoạch – chuyên gia Hội đồng khoa học, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng, để hạn chế thiệt hại trong tương lai, cần một cách tiếp cận tổng thể. Cụ thể, cần quy hoạch phòng lũ hạ du. Đồng thời nâng cấp cảnh báo sớm. Cùng với đó, cần điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ chứa phù hợp với biến đổi khí hậu và sẵn sàng đầu tư vào công trình phòng lũ chuyên dụng. TUẤN NGUYỄN Trong đợt mưa lũ kỷ lục ở miền Trung vừa qua, có ý kiến cho rằng việc xả lũ của các công trình thủy điện dẫn đến tình trạng “lũ chồng lũ” cho hạ du? Quan điểm của ông như thế nào về vấn đề này? Để đánh giá đúng bản chất, phải nhìn nhận mưa lũ vừa qua là một biến cố khí hậu cực đoan, khi lượng mưa vượt xa trung bình nhiều năm và thậm chí vượt quá dung tích thiết kế của một số hồ chứa. Trong trường hợp này, dù có hay không có thuỷ điện, lũ lớn vẫn sẽ xảy ra. Tuy vậy, cũng cần thẳng thắn: một số hồ chứa chưa vận hành thật sự hiệu quả, nhất là việc duy trì dung tích phòng lũ hoặc cảnh báo trước khi xả. Những yếu tố này có thể khiến người dân hạ du cảm nhận rõ rệt tình trạng “lũ tự nhiên” cộng hưởng với “lũ do vận hành hồ chứa”, nghĩa là thiên tai cộng với nhân tai. Khoa học thủy văn cho thấy, thuỷ điện có thể góp phần giảm đỉnh lũ khi được vận hành đúng quy trình liên hồ, trên cơ sở dự báo khí tượng thủy văn đáng tin cậy. Nhưng nếu vận hành thiếu chủ động, hoặc thông tin đến chính quyền và người dân không kịp thời, rủi ro ở hạ du sẽ tăng lên, dù mức độ khác nhau theo từng lưu vực. Theo ông, cần có giải pháp như nào để giảm thiểu thiệt hại do thủy điện xả lũ cũng như đảm bảo hài hoà nhất lợi ích giữa người dân hạ du với các công ty thủy điện? Trong bối cảnh thiên tai ngày càng phức tạp, theo tôi có ba nhóm giải pháp mang tính nền tảng và cần được triển khai đồng bộ: Thứ nhất, phải hoàn thiện quy trình vận hành liên hồ chứa trên cơ sở khoa học và dự báo hiện đại, phải cập nhật quy trình vận hành phù hợp với thực tế biến đổi khí hậu. Các thông số thiết kế của 10-20 năm trước không còn phù hợp với tình trạng mưa cực đoan hiện nay. Để làm được việc này cần tăng cường áp dụng mô hình dự báo mưa - lũ theo thời gian thực, tích hợp dữ liệu radar, vệ tinh, và mạng trạm tự động để dự báo chính xác dung lượng lũ vào hồ. Yêu cầu các hồ chứa duy trì dung tích đón lũ tối thiểu trong suốt mùa mưa, không để tình trạng tích đầy nước để ưu tiên phát điện. Ngoài ra, cần thiết lập một cơ quan điều phối vận hành trên toàn lưu vực đóng vai trò “nhạc trưởng”, có quyền ra lệnh điều tiết liên hồ dựa trên hệ thống dữ liệu tập trung và công cụ hỗ trợ ra quyết định, tránh tình trạng các hồ “mạnh ai nấy xả”. Đồng thời, dữ liệu vận hành của các hồ phải được công khai theo quy định mới của Luật Tài nguyên nước 2023. Giải pháp thứ hai là minh bạch hóa dữ liệu và chuẩn hóa hệ thống cảnh báo cho hạ du. Mỗi đợt xả lũ phải có thông báo sớm, liên tục và chính xác tới chính quyền cấp xã, huyện, cũng như người dân sinh sống ven sông. Thông tin vận hành hồ chứa cần được công bố rộng rãi, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý và nhà khoa học kiểm chứng, đánh giá. Giải pháp thứ ba cũng rất quan trọng là điều chỉnh cơ chế chính sách để bảo đảm lợi ích cộng đồng. Tôi cho rằng cần đánh giá lại toàn bộ hệ thống thuỷ điện nhỏ, dự án nào gây tác động lớn đến môi trường và an toàn thì phải xem xét điều chỉnh hoặc dừng hoạt động. Xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định, các phương án phòng tránh thiên tai và bản đồ phòng tránh rủi ro thiên tai. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến phí khi sử dụng dung tích hữu ích của hồ trong phòng chống giảm nhẹ thiên tai hay sử dụng nước hồ cho các mục đích khác cũng như việc bồi thường thiệt hại khi để xảy ra lũ chồng lũ… Xin cảm ơn ông! NGUYỄN HOÀI Cần đánh giá lại hệ thống thủy điện nhỏ TS Tô Văn Trường, chuyên gia độc lập về môi trường và tài nguyên nước chia sẻ với Tiền Phong về 3 nhóm giải pháp quan trọng để giảm thiểu tác động do thủy điện xả lũ đến hạ du cũng như đảm bảo hài hòa nhất lợi ích các bên sau đợt mưa lũ lịch sử vừa qua ở miền Trung, Tây Nguyên. TS Tô Văn Trường THỦY ĐIỆN VÀ BÀI TOÁN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==