PHÁN XÉT DỰA TRÊN VIỆC… KHÔNG ĐỌC Trong những tranh luận xoay quanh Nỗi buồn chiến tranh thời gian qua, một hiện tượng lặp lại với tần suất dày đặc là kiểu phát biểu mở đầu bằng câu: “Tôi chưa đọc tác phẩm, nhưng…”. Nửa câu đầu thừa nhận sự thiếu trải nghiệm trực tiếp, nửa câu sau lại đưa ra những kết luận chắc nịch, không cho phép người khác hoài nghi. Đây có thể coi như một dạng hành vi phổ biến trong đời sống mạng xã hội: từ chối hiểu trước khi phán xét. Với văn chương, hiện tượng này càng trở nên nguy hiểm. Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu thuyết có cấu trúc phân mảnh, nhiều tầng nghĩa, sử dụng kỹ thuật dòng ý thức để tái tạo lại sự phức tạp của ký ức con người. Đây đều là những yếu tố đòi hỏi người đọc phải dành thời gian và nỗ lực để tiếp cận. Thế nhưng, nhiều người lại gắn cho tác phẩm những nhãn mác như “bôi đen”, “tiêu cực”, “xuyên tạc”, “bóp méo lịch sử”… dựa trên vài đoạn trích rời rạc hoặc những lời tóm tắt sai lệch. Việc đọc bị thay thế bằng việc nghe kể lại tất dẫn đến những đánh giá chỉ dựa trên tâm lý đám đông. Bởi xét cho cùng tác phẩm văn chương nào cũng có nguy cơ bị đối xử như một sản phẩm phải phục vụ định kiến. Người ta không đối thoại với tác phẩm, mà chỉ tìm cách áp một ý niệm có sẵn lên nó. Trong môi trường như vậy, các tác phẩm phức tạp, càng dễ bị hiểu sai. Tất nhiên, người đọc có thể thích hay không thích Nỗi buồn chiến tranh. Văn chương luôn mở đường cho nhiều cách đọc. Nhưng điều đáng bàn là tinh thần trách nhiệm của người phát ngôn. Một ý kiến phê phán không dựa trên trải nghiệm đọc là một ý kiến khuyết nền tảng. Nguy hiểm là khi những ý kiến như vậy được chia sẻ hàng nghìn lần, nó tạo ra một vòng lặp của định kiến, khiến người chưa đọc lại càng tin vào những kết luận lạc quẻ. Nhiều học giả tỏ ra lo lắng vì không khí tranh luận xung quanh Nỗi buồn chiến tranh khi ngày càng xuất hiện nhiều ý kiến mạt sát tác phẩm bằng thái độ phủ định sạch trơn, từ chối mọi tầng nghĩa mà văn chương vốn gợi mở. TS. Nguyễn Hải Yến nhận xét rằng, kiểu phản ứng này cho thấy “sự suy giảm nghiêm trọng của năng lực đọc sâu”, khi người ta không còn phân biệt được đâu là cảm xúc tức thời và đâu là phương pháp tiếp cận văn bản. Theo bà, điều đáng sợ nhất không phải là các quan điểm trái chiều, vì văn học luôn cần những khác biệt trong cách đọc, mà là việc tranh luận bị giản hóa thành hành vi tấn công tác phẩm. Nỗi buồn chiến tranh có thể gây tranh cãi, nhưng tranh cãi chỉ có ý nghĩa khi dựa trên hiểu biết. Còn mọi cuộc phê phán không thông qua hành động đọc đều làm nghèo đi không gian đối thoại và khiến văn hóa tranh luận trở nên nông cạn. “TAI HỌA CỦA VĂN HỌC” Ở bất cứ lĩnh vực nào, sự thiếu hiểu biết cũng đều dẫn theo những sai lệch. Nhưng trong văn học, chính vì nó được viết bằng ngôn ngữ hằng ngày, người ta tin rằng mình không cần học vẫn có thể phán xét. Văn chương dùng cùng thứ ngôn ngữ mà ta dùng để mua mớ rau, để nói chuyện bạn bè, để nhắn tin trong ngày. Nhưng đó chỉ là bề mặt. Vẻ đẹp của văn chương không nằm ở phần nổi của tảng băng trôi, nó là thứ chìm ở bên dưới, là những tầng, những lớp nghĩa, những câu hỏi tự vấn mà người đọc phải đào xới, kết nối và tự mình khám phá. Không hiểu rõ căn cốt văn chương, người đọc dễ nhầm sự phức tạp là tiêu cực, sự dày đặc là mệt mỏi và sự chân thực là bôi đen. Văn học về đề tài chiến tranh, cũng như văn học viết về cái ác, theo TS. Đoàn Minh Tâm: “Quy luật cuộc sống đã chỉ ra, càng có nhận thức đúng đắn về bản chất của sự vật, chúng ta càng không để những điều xấu xa xảy ra. Một nhận thức đúng đắn về cái ác sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi cái ác. Đó là phương cách các văn nghệ sĩ khi sáng tác về cái ác, cái xấu trong xã hội rất khác biệt so với các loại hình thông tin và truyền thông. Bởi lẽ, phương thức của thông tin và truyền thông có tính đại chúng là phê phán trực diện, không vòng vo về cái ác, cái xấu, có tính cảnh báo, răn đe những ai đừng để bàn tay nhúng chàm. Văn nghệ nói chung, trong đó có văn học phải sử dụng hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật khi nói về cái ác, cái xấu, mục đích là để công chúng ấn tượng sâu đậm, ghê tởm, tránh xa tội ác. Cho nên, cần phải hiểu nhiệm vụ của mỗi phương cách, nhất là hiểu những ẩn ý đằng sau việc sử dụng hình tượng nghệ thuật”. Sự tấn công trên mạng xã hội với tác phẩm này cũng phản ánh một vấn đề khác. Văn hóa tiếp nhận của thời mạng xã hội đang thích sự rõ ràng, trắng, đen dứt khoát, còn văn chương, đặc biệt văn chương đương đại, luôn mời gọi sự phức tạp. Ở đó không có nhân vật hoàn hảo, không có cảm xúc chỉ có một màu, không có chiến thắng nào không kèm theo mất mát. Chưa kể, Bảo Ninh viết về chiến tranh nhưng lại bằng hình thức tự sự hiện đại mà ai quen lối kể tuyến tính sẽ thấy rối. Nhưng “rối” không phải vì tác phẩm sai. Trách nhiệm rõ ràng không nằm ở văn chương. n làm phim. Nó báo hiệu một nguy cơ dài hạn nguy hiểm hơn là điện ảnh Việt sẽ ngày càng ít đi những tác phẩm dám đầu tư cho chiều sâu thẩm mỹ, vì ai cũng nhìn thấy cái giá phải trả khi bước ra khỏi vùng an toàn của phim giải trí thuần túy”, bà Thảo Đan nhấn mạnh. PHIM VIỆT CÓ LẬP ĐỈNH MỚI SAU CHUỖI THẤT BÁT PHÒNG VÉ? Rất dễ để thấy rằng, Quán Kỳ Nam đạt được sự đồng thuận rất cao ở phía chuyên môn và các nhà phê bình. Các nghệ sĩ kỳ cựu dành những lời khen hiếm gặp: NSƯT Hữu Châu gọi phim “đẹp đến nao lòng”. Ca sĩ Mỹ Linh nói phim “chân thật đến mức không còn cảm giác xem phim”. Nhạc sĩ Quốc Trung đánh giá phần âm thanh xuất sắc. Đạo diễn Nhuệ Giang nhận xét bộ phim là nỗ lực hiếm hoi của điện ảnh Việt trong việc tái tạo ký ức đô thị, tinh tế hóa câu chuyện tình Việt Nam trên màn ảnh. Nhưng thị trường lại chỉ thích “đo” phim bằng khán giả. Ở các suất chiếu hiếm, nhiều rạp gần như trống. Bản thân người viết từng hưởng cảm giác “bao rạp” khi chọn xem phim vào khung giờ muộn. Nhiều KOLs, nhà phê bình, nhà sản xuất đã cùng lên tiếng kêu gọi khán giả: “Hãy đi xem Quán Kỳ Nam trước khi phim không còn được chiếu nữa”. Có lẽ “tiếng vọng” này đã được một vài đơn vị “nghe thấy”. Ngay sau đó, Trung tâm Chiếu phim Quốc gia tăng suất chiếu Quán Kỳ Nam lên 6-7 suất mỗi ngày, có cả khung giờ hành chính, thay vì co cụm 2-3 suất như khi phim mới ra rạp. Đại diện của Trung tâm Chiếu phim Quốc gia cho biết: “Các rạp vận hành theo quy luật cung cầu. Suất chiếu sớm không đạt doanh thu tốt, phim sẽ không được ưu tiên xếp suất. Những bộ phim có thương hiệu mạnh, hoặc đánh trúng nhóm khán giả trẻ, lực lượng ra rạp chủ đạo, sẽ được ưu tiên suất đẹp. Trong tuần công chiếu, Zootopia 2 có 3.700 suất mỗi ngày, Phi vụ thế kỷ có 900 suất, Truy tìm long diên hương giữ 2.500 suất, còn Quán Kỳ Nam chỉ vài trăm suất rất phân tán”. Vị này khẳng định, chính việc thiếu suất chiếu đã đẩy phim vào vòng luẩn quẩn: ít suất dẫn đến ít khán giả khiến cho rạp cắt suất và kết quả là phim chìm dần. Phân tích về khả năng “lập đỉnh mới” của phim Việt sau hai “đỉnh” Mưa đỏ và Tử chiến trên không, nhà sản xuất Bích Ngọc cho rằng, kết quả phụ thuộc vào hai yếu tố. Thứ nhất là thị trường đang phân hóa mạnh. Khán giả trẻ là lực lượng chi phối phòng vé. Họ ưu tiên phim có nhịp nhanh, giải trí, hoặc thương hiệu hoạt hình quốc tế hơn là những phim trầm, đẹp, lãng mạn như Quán Kỳ Nam. Nỗ lực tiếp cận nhóm khán giả này trở nên cực kỳ khó khăn nếu phim không có chiến lược truyền thông mạnh. Và thứ hai là sự áp đảo của bom tấn ngoại. Khi Zootopia 2 tung 3.700 suất chiếu, gần như không một phim Việt nào có cơ hội “ngoi lên”. Sự cạnh tranh không cân sức này khiến phim Việt bị đẩy xuống những khung giờ “tử thần”. Bà Ngọc cho biết, sở dĩ Truy tìm long diên hương thành công bởi nó tạo được sự kiện, bắt đúng thị hiếu tò mò và giải trí. Theo bà, phim Việt muốn lập đỉnh mới cần có chiến lược xây dựng sự kiện tương tự, nhưng điều này không dễ. n www.tienphong.vn VĂN HÓA 7 Nhà văn Bảo Ninh nhận giải thưởng văn học châu Á lần thứ hai, tại Hàn Quốc cho tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh 6-7/12/2025 HẠNH ĐỖ Nỗi buồn chiến tranh, tôi chưa đọc, nhưng… MỘT NHÀ VĂN TỪNG NÓI: “MUỐN THƯỞNG THỨC ÂM NHẠC, PHẢI HỌC, HỌC TỪ A B C CỦA NHẠC. VĂN HỌC CÓ CÁI TAI HỌA, NÓ ĐƯỢC DIỄN ĐẠT BẰNG NGÔN NGỮ THÔNG THƯỜNG, LỜI ĂN TIẾNG NÓI HẰNG NGÀY CỦA MỌI NGƯỜI. NÊN AI CŨNG TƯỞNG CỨ ĐỌC LÀ HIỂU. ĐỂ ĐỌC VĂN HỌC CŨNG PHẢI HỌC CÁI XÔNPHE (XƯỚNG ÂM) CỦA NÓ, NHƯ PHẢI HỌC ĐỂ BIẾT NGHE VÀ HIỂU NHẠC”. “Sự việc mạt sát Nỗi buồn chiến tranh không chỉ là câu chuyện của một cuốn sách. Nó phản ánh lỗ hổng trong khả năng tiếp nhận nghệ thuật của một bộ phận cộng đồng mạng: sự nôn nóng trong phán xét, sự lẫn lộn giữa quyền phát biểu và năng lực thẩm định, và sự thiếu kiên nhẫn trước những tác phẩm đòi hỏi suy tư nghiêm túc. Vấn đề sâu xa hơn là xã hội chưa coi trọng giáo dục tiếp nhận nghệ thuật. Ta dạy trẻ phân biệt ẩn dụ, hoán dụ, nhưng ít khi dạy tại sao nhà văn chọn cấu trúc đứt gãy. Ta dạy học sinh phân tích nhân vật “tích cực” hay “tiêu cực”, nhưng hiếm khi nói rằng văn chương đôi khi từ chối hết các nhãn mác ấy. Ta quen đọc để tìm thông điệp, mà quên rằng tác phẩm lớn thường không có một thông điệp duy nhất”. TS. NGUYỄN VĂN HOÀN Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được giới chuyên môn đánh giá cao, được dịch ra khoảng 20 thứ tiếng và phát hành tại nhiều quốc gia trên thế giới
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==