8 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ n Thứ Ba n Ngày 2/12/2025 CHUYỂN ĐỔI SỐ ĐỔI ĐỜI NHIỀU BẢN LÀNG Du khách đến Lô Lô Chải giờ chỉ cần chiếc điện thoại để tìm phòng, đặt tour, xem dịch vụ ẩm thực hoặc văn hóa bản địa. Tất cả đã được số hóa, thông tin hiển thị mạch lạc chỉ sau vài thao tác chạm. Đặt phòng qua ứng dụng, thanh toán bằng QR, xem gợi ý trải nghiệm bản địa cũng từ điện thoại. Việc giao tiếp giữa khách và những người làm dịch vụ ở vùng cao vốn phức tạp vì ngôn ngữ, giờ trở nên gọn nhẹ theo đúng nghĩa đen: chỉ cần một cái quét mã. Người dân trong bản, vốn chỉ quen với nương bắp và tiếng khèn, được Tổ công nghệ số cộng đồng hỗ trợ quay video quảng bá, đăng tải hình ảnh lên Facebook, Zalo, YouTube, TikTok. Sản phẩm bản địa được bán dễ hơn, du khách mua hàng bằng QR tiện lợi hơn, thu nhập cải thiện rõ rệt theo chia sẻ từ thôn. Ông Giàng Mí Mua, Phó Chủ tịch UBND xã Lũng Cú cho biết, xã đã thành lập tổ chuyển đổi số cộng đồng tại 37/37 thôn; riêng Lô Lô Chải là thôn du lịch nên triển khai mạnh mẽ hơn. Sự chủ động của người dân tạo ra một mô hình phát triển không còn lệ thuộc vào trung gian truyền thông hay công ty lữ hành. Không chỉ Hà Giang, bản Nà Sự ở Nậm Pồ (Điện Biên) được báo chí ghi nhận là bản du lịch cộng đồng đầu tiên được số hóa toàn diện tại Việt Nam cũng thay đổi hoàn toàn khi ứng dụng công nghệ quảng bá số hóa. Người đến chỉ cần quét QR là biết nơi ăn, chỗ ở, lộ trình trekking, văn hóa dân tộc. Sau một năm mở cửa, bản đã đón hơn 5.000 lượt khách, con số đáng kể với vùng còn mới trên bản đồ du lịch. Theo quan điểm của chuyên gia kinh tế du lịch TS. Trần Văn Mạnh, Lô Lô Chải đang cho thấy một mô hình đáng chú ý: du lịch cộng đồng hoàn toàn có thể vận hành chủ động nếu hạ tầng số được trao vào tay chính người dân. Việc từng hộ gia đình biết quay video giới thiệu homestay, niêm yết giá dịch vụ rõ ràng, nhận đặt phòng và thanh toán qua QR khiến vai trò kinh tế trong bản được phân bổ lại theo hướng bình đẳng hơn. Bản làng lúc này được vận hành như một hệ sinh thái du lịch mở, ở đó người dân vừa sản xuất dịch vụ, vừa truyền thông, vừa trực tiếp nhận lợi ích kinh tế. Mô hình này có tính bền vững cao hơn so với cách làm truyền thống vốn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp lữ hành bên ngoài, bởi giá trị tạo ra nằm lại trong cộng đồng thay vì bị phân chia theo chuỗi trung gian. Thực tế cho thấy, một bản đẹp, giàu truyền thống nhưng thiếu nội dung trực tuyến rất dễ bị bỏ quên, trong khi một địa phương bình thường nhưng biết kể chuyện qua video ngắn, gắn định vị thương hiệu và tối ưu trải nghiệm số lại có thể vươn lên nhanh chóng. “Công nghệ có tác dụng mở đường, nhưng bản sắc mới tạo chiều sâu”, TS. Trần Văn Mạnh phân tích. “Nếu địa phương chạy theo hình ảnh bắt mắt mà thiếu các câu chuyện văn hóa, mô hình sẽ sớm thoái trào. Chuyển đổi số vì thế cần song hành hai vế: hiện diện mạnh trên nền tảng số và giữ được trải nghiệm độc nhất mà chỉ địa phương đó có thể mang lại”, ông Mạnh nói thêm. CÔNG NGHỆ DẪN KHÁCH, NHƯNG NỘI DUNG MỚI GIỮ ĐƯỢC KHÁCH Ở trải nghiệm quy mô hơn, Văn Miếu - Quốc Tử Giám triển khai hệ thống bán vé điện tử, mã QR và audio guide đa ngôn ngữ những năm gần đây đã thu hút sự chú ý của lượng lớn du khách nước ngoài. Theo báo cáo năm 2024, di tích bán khoảng 1,6 triệu vé, tăng hơn 500.000 vé so với năm 2023. Khó tách đâu là phần tăng do sức du lịch hậu đại dịch và đâu từ chuyển đổi số, nhưng không thể phủ nhận rằng chế độ vé số giúp giảm ùn tắc và cải thiện trải nghiệm khách đoàn, đặc biệt vào mùa cao điểm. “Chuyển đổi số mang đến tốc độ, đây là điều mà du lịch truyền thống thiếu. Thay vì phải đến tận nơi hỏi giá, xem phòng, hỏi đường, mọi thao tác diễn ra từ nhà. Việc Làng Lô Lô Chải nằm dưới chân cột cờ Lũng Cú (Hà Giang, nay là Tuyên Quang) vốn chỉ là một bản vùng cao lặng lẽ với nếp sống canh tác truyền thống. Mới đây, ngôi làng được Tổ chức Du lịch Liên Hợp Quốc lựa chọn trong số hơn 270 hồ sơ từ 65 quốc gia, công nhận là “Làng Du lịch tốt nhất thế giới”. Những người nông dân quen với việc bán mặt cho đất bán lưng cho giời nay đã trở thành những “đại sứ du lịch” nhờ mạnh dạn ứng dụng chuyển đổi số. Nhờ ứng dụng chuyển đổi số, Lô Lô Chải trở thành một địa điểm du lịch được “người người biết đến” Ngôi làng “đi bằng internet” lên bản đồ du Khách du lịch khi đến với Lô Lô Chải đều thích quay trở lại bởi ở đây khí hậu mát mẻ, phong cảnh đẹp, người dân thân thiện và đặc biệt văn hóa địa phương đặc sắc TỪ NGƯỜI PHÁ RỪNG ĐẾN NGƯỜI GIỮ RỪNG Ở vùng núi Tuyên Lâm, nhắc đến chuyện trồng rừng, người ta kể tên nhiều người giỏi và giàu nhờ trồng rừng. Nhưng nếu hỏi ai trồng rừng bằng giống cây bản địa, câu trả lời chỉ có một: ông Đinh Xuân Niệm, bản Hà. Đồng hành cùng ông suốt hành trình hơn ba thập kỷ ấy là người vợ tảo tần, cụ bà Đinh Thị Dụng - người tin và thương ông đến tận gốc rễ của tình yêu lẫn rừng xanh. Lão tiều phu Đinh Xuân Niệm dáng gầy, da sạm nắng, lưng hơi còng, nhưng mỗi sáng vẫn vác rựa vào rừng, đôi mắt sáng hiền như ánh nắng xuyên qua tán cây. Cứ thế, suốt hơn 30 năm, ông gắn bó với khu rừng 5 ha, xanh mướt, bình yên, như mảnh rừng nguyên sinh thu nhỏ. Ba mươi năm trước, vùng đất xã Thanh Hóa, huyện Tuyên Hoá (cũ) quê ông từng được gọi là “xã lâm tặc”. Khi ấy, cái nghèo, cái đói đẩy dân làng vào rừng đốn gỗ kiếm sống. Ông Niệm cũng không ngoại lệ. “Hồi đó, nhà đông con, không chặt rừng thì biết làm gì để có gạo” - ông Niệm phân bua. Ngày ngày, tiếng rìu, tiếng cưa vang khắp núi. Nhưng càng chặt, rừng càng thưa, suối càng cạn. Đêm đến, ông nằm trằn trọc, nghe gió hú qua đồi mà cứ tưởng rừng đang khóc. Là cựu binh từng chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, ông Niệm hiểu rõ giá trị của rừng. Trong những năm tháng bom đạn, chính rừng Trường Sơn đã che chở, nuôi dưỡng ông và đồng đội. “Rừng cứu mình sống, thế mà mình lại phản bội nó” - ông nói, giọng khàn như gió núi. Năm 1997, khi Nhà nước phát động phong trào phủ xanh đất trống, đồi trọc, ông quyết định dừng tay với chặt rừng, nhận khoảnh đất bom cày gần hang Lèn Hà - di tích lịch sử Trường Sơn để trồng lại rừng. “Tôi coi đó như cách chuộc lỗi với rừng, với chính mình” - ông kể. Ngày ấy, dân quanh vùng đổ xô trồng keo, bạch đàn… loại cây lớn nhanh, dễ bán. Riêng ông Niệm lại chọn lim, sưa, vàng tâm, huỳnh, trầm dó… những loài bản địa mọc chậm, lâu năm mới thu hoạch. “Người ta bảo tôi điên, Khu rừng “tự nhiên” của ông Đinh Xuân Niệm nHOÀNG NAM PHÓNG SỰ Suốt hơn ba thập niên, lão tiều phu Đinh Xuân Niệm (85 tuổi, bản Hà, xã Tuyên Lâm, tỉnh Quảng Trị) ngày nào cũng vác rựa vào rừng, chăm từng gốc lim, khóm trầm, ngọn sưa. Từng là “lâm tặc” một thời, ông dành nửa đời còn lại để trả nợ và trả ơn cho rừng. Lão tiều phu trả nợ rừng
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==