Báo Tiền Phong số 336

TRANG 8-9 Ngôi làng “đi bằng internet” lên bản đồ du lịch thế giới THỨ BA 2/12/2025 Số 336 0977.456.112 U17 VIỆT NAM - THẾ HỆ CẦU THỦ TÀI NĂNG TRANG 16 TRANG 2 - 3 NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUAN HỆ ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM-BRUNEI TRANG 14 TRANG 6 Các cơ sở sản xuất công nghiệp, xe máy chạy xăng được xác định là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí ở Hà Nội TP HÀ NỘI: CHUYỆN HÔM NAY Thời gian gần đây, chúng ta thấy sự chỉ đạo mạnh mẽ của lãnh đạo Đảng, Chính phủ, các bộ ngành trong việc cải thiện chất lượng môi trường không khí các đô thị, nhất là Hà Nội. XEM TIẾ P TRANG 7 n TUỆ MINH Lo ngại “trên nóng dưới lạnh” TRANG 4-5 VIỆT NAM-LÀO: BỔ SUNG NỘI HÀM MỚI CỦA QUAN HỆ ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT TRANG 2-3 Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân cùng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith và Phu nhân chụp ảnh chung tại lễ đón ẢNH: TTXVN TRANG 12 Xuất khẩu vũ khí của Trung Quốc giảm mạnh giảm ô nhiễm không khí Hiện thực hóa “Chiến dịch Quang Trung thần tốc” Thiếu “trọng tài” công nhận bằng cấp SIẾT ĐÀO TẠO NGÀNH Y: Di dời cơ sở sản xuất công nghiệp QUYẾT LIỆT

Nhận lời mời của Chủ tịch nước Lương Cường, Quốc vương Brunei Darussalam Haji Hassanal Bolkiah thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 30/11-2/12. Sáng 1/12, ngay sau lễ đón cấp Nhà nước được tổ chức trọng thể tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Lương Cường hội đàm với Quốc vương Brunei. Tại cuộc hội đàm, Chủ tịch nước Lương Cường nhấn mạnh, chuyến thăm có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo xung lực mới, thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam-Brunei ngày càng thực chất và hiệu quả hơn, vì lợi ích phát triển và thịnh vượng của hai dân tộc. Chủ tịch nước khẳng định Việt Nam coi trọng và mong muốn thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác với Brunei. Chia sẻ về các định hướng phát triển của Brunei thời gian tới, trong đó tập trung phát triển các lĩnh vực AI, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, Quốc vương Haji Hassanal Bolkiah khẳng định coi trọng và mong muốn đưa quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước ngày càng phát triển trên các lĩnh vực, hiệu quả và thực chất hơn. Quan hệ chính trị, ngoại giao ngày càng được củng cố thông qua duy trì các cuộc tiếp xúc, trao đổi đoàn cấp cao và các cấp trên tất cả các kênh; các cơ chế hợp tác song phương được triển khai hiệu quả. Hợp tác quốc phòng-an ninh là điểm sáng trong quan hệ hai nước, với việc hợp tác chặt chẽ giữa các lực lượng quốc phòng, phối hợp và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc phòng đa phương, nhất là trong khuôn khổ ASEAN và ASEAN+. Hợp tác kinh tế phát triển tích cực với kim ngạch thương mại hai chiều hoàn thành trước thời hạn mục tiêu đạt 500 triệu USD năm 2025. Hợp tác trên các lĩnh vực như nông nghiệp, năng lượng, giáo dục-đào tạo và giao lưu nhân dân... cũng được đẩy mạnh. Về định hướng phát triển quan hệ hai nước thời gian tới, hai nhà lãnh đạo nhất trí tăng cường hiệu quả quan hệ Đối tác toàn diện thông qua tăng cường trao đổi các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao và các cấp, đẩy mạnh quan hệ trên các kênh giữa Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân nhằm tăng cường tin cậy chính trị và hiểu biết lẫn nhau. Chủ tịch nước Lương Cường và Quốc vương Haji Hassanal Bolkiah khẳng định quan hệ kinh tế giữa hai nước còn nhiều tiềm năng và dư địa; nhất trí phấn đấu đưa kim ngạch thương mại song phương phối hợp chặt chẽ để tăng gấp đôi kim ngạch thương mại hai chiều trong thời gian sớm 2 THỜI SỰ n Thứ Ba n Ngày 2/12/2025 Nhận lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith và Phu nhân, Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam thăm cấp Nhà nước tới Lào và dự Lễ kỷ niệm 50 năm Quốc khánh Lào từ ngày 1- 2/12. Chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Lào lần này là chuyến thăm đầu tiên trên cương vị Tổng Bí thư; mang đến những tình cảm đoàn kết, hữu nghị tốt đẹp, gắn bó, tin cậy của nhân dân Việt Nam; khẳng định sự ủng hộ toàn diện của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam đối với công cuộc đổi mới, bảo vệ và xây dựng đất nước Lào. VIỆT NAM LUÔN DÀNH ƯU TIÊN CAO NHẤT CHO QUAN HỆ VỚI LÀO Sáng 1/12, sau lễ đón chính thức Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam tại Phủ Chủ tịch theo nghi thức cao nhất dành cho nguyên thủ quốc gia, Tổng Bí thư Tô Lâm hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith. Tổng Bí thư Tô Lâm bày tỏ vui mừng thăm lại đất nước Lào tươi đẹp vào đúng dịp kỷ niệm 50 năm Quốc khánh Lào và 105 năm ngày sinh Chủ tịch Kaysone Phomvihane. Đây là những sự kiện thiêng liêng, mang ý nghĩa lịch sử, chính trị và nhân văn, là dịp để hai nước cùng ôn lại chặng đường đầy gian lao mà rất đỗi vẻ vang của đất nước Lào anh em, cũng như mối quan hệ gắn bó keo sơn của hai nước, hai dân tộc; khẳng định ý chí độc lập, lòng kiên định và tinh thần đoàn kết bất diệt của nhân dân các dân tộc Lào. Chuyến thăm tới Lào lần này của Tổng Bí thư Tô Lâm một lần nữa khẳng định đường lối đối ngoại nhất quán của Việt Nam luôn dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ đoàn kết đặc biệt với Lào. Đây cũng là dịp để hai nước cùng nhau khẳng định quyết tâm xây dựng tầm nhìn mới, đưa quan hệ Việt Nam - Lào lên tầm cao phát triển mới, với mức độ tin cậy ngày càng sâu sắc, mở ra những đột phá mạnh mẽ trong hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. Tại cuộc hội đàm, lãnh đạo hai nước đã trao đổi sâu rộng về tình hình mỗi nước. Tổng Bí thư Tô Lâm thông báo về tình hình phát triển mọi mặt của Việt Nam, trong đó có việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị được triển khai tổng thể, triệt để và đồng bộ trên cả nước. Hai nhà lãnh đạo bày tỏ vui mừng về mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào đang ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả trên các lĩnh vực, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước, coi đây là quy luật phát triển và là nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các ban của hai Đảng, các bộ, ngành của Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội, Mặt trận, các đoàn thể, tổ chức nhân dân, các địa phương hai nước tiếp tục được tăng cường. Hợp tác giữa các địa phương, đặc biệt là các tỉnh biên giới ngày càng mở rộng, phối hợp bảo đảm tốt an ninh, trật tự biên giới. Đánh giá quan hệ chính trị gắn bó, tin cậy giữa hai nước không ngừng được củng cố thông qua việc thường xuyên duy trì các cuộc tiếp xúc, trao đổi cấp cao và các cấp, cùng với hiệu quả hoạt động của nhiều cơ chế hợp tác trên các lĩnh vực, hai bên nhất trí triển khai hiệu quả các thỏa thuận và kế hoạch cấp cao, đặc biệt là kết quả Cuộc gặp cấp cao giữa hai Đảng năm 2025 và Cuộc gặp lần thứ ba giữa 3 đồng chí đứng đầu ba Đảng Việt NamLào-Campuchia. Trên cơ sở kế thừa và phát huy truyền thống quan hệ đoàn kết đặc biệt, Việt Nam và Lào nhất trí làm sâu sắc hơn quan hệ song phương bằng việc bổ sung nội hàm mới: “Hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện, gắn kết chiến lược”. Chuyến thăm của Quốc vương Brunei tại Việt Nam thúc đẩy hợp tác toàn diện, tăng cường chính trị, kinh tế, quốc phòng và hợp tác biển giữa hai nước. Bổ sung nội hàm mới của quan hệ đoàn kết Nâng cao hiệu quả quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam-Brunei Chủ tịch nước Lương Cường và Quốc vương Brunei Darussalam Haji Hassanal Bolkiah ẢNH: TTXVN Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân cùng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith và Phu nhân chụp ảnh chung tại lễ đón ẢNH: TTXVN Lào trao tặng Tổng Bí thư Tô Lâm Huân chương Vàng Quốc gia Trưa 1/12, thay mặt Đảng và Nhà nước Lào, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith trao tặng Tổng Bí thư Tô Lâm Huân chương Vàng Quốc gia. Việc trao tặng huân chương cao quý nhất của Nhà nước CHDCND Lào thể hiện sự trân trọng những công lao to lớn của Tổng Bí thư Tô Lâm trong việc vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào - Việt Nam. QUAÛNG CAÙO PHAÙT HAØNH Haø Noäi: ÑT: (024)39432758; Fax: (024)39435285 TPHCM: ÑT: (028)38469860; Fax: (028)38480015 Trong giôø haønh chính (024)39439664 Ngoaøi giôø 0908988666 (Nguyeãn Haèng) n Thieát keá : QUANG HUY n Giaù: 5.500 ñoàng n Ban ñaiï dienä taiï thanø h pho á Ho à Chí Minh: 384 Nam Kyø Khôiû Nghóa, P.Xuanâ Hoa-ø TPHCM. ÑT: (028) 3848 4366, E-mail: tienphonghcm@gmail.com n Ban ñaiï dienä taiï mienà Trung: 339 Leâ Thanh Nghò, P.Hoaø Cöônø g; 19 Ngoâ Gia Tö,ï P.Haiû Chauâ , TP Ña ø Nanü g, ÑT: (0236)3828 039, E-mail: banmientrung@baotienphong.com.vn n Ban ñaiï dienä taiï Bacé Trung Bo:ä 21 Ho à Xuanâ Höông, P.Thanø h Vinh, tænh Ngheä An. ÑT: (0238)8602345; Email: baotienphongbactrungbo@gmail.com. n Ban ñaiï dienä taiï ÑBSCL: 103 Tranà Vanê Hoaiø , P.Ninh Kieuà , TP Canà Thô. ÑT: (0292)3823823, Email: baotienphongdbscl@gmail.com n Ban ñaiï dienä taiï Tayâ Nguyenâ - Nam Trung Bo:ä 52 Tranà Nhatä Duatä , P.Buonâ Ma Thuotä , Ñaké Laké , ÑT: (0262)3950029, E-mail: baotienphongtaynguyen@gmail.com; 1018, ñöônø g 2/4, P. Bacé Nha Trang, tænh Khanù h Hoaø . SÑT: 0258.6500.155. Email: tienphongnhatrang@gmail.com n Ban ñaiï dienä taiï Tayâ Bacé Bo:ä 64 ñöônø g Ly ù Tö ï Tronï g, P.Yenâ Baiù , tænh Laoø Cai. ÑT: 0904938689, E-mail: vptaybacbotp@gmail.com n Ban ñaiï dienä taiï Ñonâ g Bacé Bo:ä So á 18 Le â Thanh Nghò, P.Haï Long, tænh Quanû g Ninh; E-mail: bandongbac@baotienphong.com.vn n Toøa soaïn: 15 Hoà Xuaân Höông, P.Hai Baø Tröng vaø D29 Phaïm Vaên Baïch, P.Caàu Giaáy, Haø Noäi. ÑT: 3943 4031 - 38227525 E-Mail: toasoan@baotienphong.com.vn, ISSN 0866-0827 Website: www.tienphong.vn n Toång Bieân taäp: PHUØNG COÂNG SÖÔÛNG n In taiï : Cty TNHH MTV in Quanâ ñoiä 1, Cty in baoù Nhanâ Danâ Ña ø Nanü g, Cty TNHH MTV in Ñaé êkê Laké , Xöônû g in Quanâ khu IV, Cty TNHH MTV in Quanâ ñoiä 2, TPHCM VIỆT NAM-LÀO:

“HỮU NGHỊ VĨ ĐẠI, ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT, HỢP TÁC TOÀN DIỆN, GẮN KẾT CHIẾN LƯỢC” Trên cơ sở kế thừa và phát huy truyền thống quan hệ đoàn kết đặc biệt, hai bên nhất trí làm sâu sắc hơn quan hệ song phương bằng việc bổ sung nội hàm mới: “Hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện, gắn kết chiến lược”. Đây là sự khẳng định tầm nhìn chung, lợi ích chiến lược đan xen và định hướng đồng hành lâu dài vì mục tiêu phát triển bền vững, tự cường và thịnh vượng chung của hai dân tộc. Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh hợp tác quốc phòngan ninh giữa hai nước ngày càng chặt chẽ, ngày càng hiệu quả, là trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước tiếp tục có bước phát triển mới, đi vào chiều sâu và hiệu quả, kết quả đạt được trong hợp tác trên các lĩnh vực này thể hiện rất tích cực; xây dựng tuyến biên giới hai nước ổn định, bền vững. Hai bên nhất trí tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc phòng-an ninh, phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau trong ứng phó với các thách thức an ninh ngày càng đa dạng, phức tạp; gắn kết an ninh, quốc phòng với phát triển kinh tế-xã hội. Hai bên cũng nhất trí tăng cường kết nối mạnh mẽ về kinh tế, hạ tầng, ngân hàngtài chính, du lịch hai nước, triển khai các biện pháp hiệu quả nhằm phấn đấu nâng kim ngạch lên 5 tỷ USD trong tương lai gần và hướng tới 10 tỷ USD trong thời gian tới, gắn với tăng cường kết nối hạ tầng giao thông, năng lượng, logistics; tăng cường trao đổi kinh nghiệm quản lý kinh tế vĩ mô, phòng chống tham nhũng. Hai bên nhất trí đẩy mạnh việc thực hiện các hiệp định hỗ trợ nhau xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tăng cường trao đổi kinh nghiệm quản lý kinh tế vĩ mô, cải cách thể chế; phối hợp chặt chẽ để giải quyết các điểm nghẽn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam triển khai hiệu quả và mở rộng các dự án đầu tư tại Lào, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế-xã hội của Lào; thường xuyên phối hợp kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các dự án sử dụng vốn viện trợ, bảo đảm đúng tiến độ, hiệu quả và chất lượng. Hai nhà lãnh đạo thống nhất thúc đẩy mạnh mẽ, tạo đột phá trong hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học-kỹ thuật; nhất trí thúc đẩy kết nối về giao thông vận tải năng lượng điện, viễn thông, du lịch; tiếp tục nâng cao chất lượng về giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, trong đó chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh giao lưu nhân dân và giữa các địa phương, coi đây là trụ cột chiến lược góp phần thắt chặt tình cảm gắn bó, củng cố nền tảng đoàn kết bền vững lâu dài giữa hai dân tộc. Hai nhà lãnh đạo khẳng định trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều biến động sâu sắc, diễn biến nhanh chóng và phức tạp, có rất nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với sự ổn định và phát triển của hai nước, hai bên duy trì hiệu quả thông tin về tình hình quốc tế, quan tâm, ủng hộ lẫn nhau trên các diễn đàn đa phương, khu vực ASEAN; bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có vấn đề Biển Đông tác động đến hòa bình, ổn định và hợp tác của cả khu vực và thế giới. THU LOAN HẠN CHẾ TỐI ĐA XUẤT KHẨU THÔ ĐẤT HIẾM Sáng 1/12, Quốc hội thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản. Tiếp thu, giải trình cuối phiên họp, Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, luật này được ban hành năm 2024 và mới có hiệu lực thi hành; lần sửa đổi này chủ yếu nhằm tháo gỡ một số vướng mắc, điểm nghẽn cần phải xử lý ngay liên quan các dự án, chương trình trọng điểm quốc gia và các chiến lược quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên đất hiếm phục vụ phát triển đất nước. Liên quan cơ chế cấp phép khai thác khoáng sản phục vụ công trình công cộng và dự án trọng điểm, tại phiên họp, nhiều đại biểu đề nghị cân nhắc phạm vi công trình được thụ hưởng chính sách và thẩm quyền quyết định; tránh mở rộng đối tượng không cần quy hoạch, dẫn đến kẽ hở, trục lợi. Giải trình về vấn đề này, Bộ trưởng Trần Đức Thắng nêu rõ, việc cho phép mở rộng xuống sâu chỉ áp dụng đối với các mỏ đang hoạt động, không yêu cầu bổ sung quy hoạch cho chính các mỏ đó. “Chỉ các dự án thăm dò, khai thác mới bắt buộc phải phù hợp quy hoạch đầy đủ”, ông Thắng bày tỏ. Đặc biệt, tại phiên thảo luận, nhiều đại biểu dành sự quan tâm đến việc quản lý khoáng sản đất hiếm. Về nội dung này, ông Thắng nói, theo số liệu công bố chính thức, Việt Nam là nước có trữ lượng đất hiếm lớn, đứng thứ hai, thứ ba thế giới, phân bổ tại 21 tỉnh, thành phố. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định tương đối đầy đủ các khu vực mỏ và đang quản lý chặt chẽ; đồng thời chủ trì xây dựng Chiến lược quốc gia về đất hiếm, trình cấp có thẩm quyền ban hành đầu năm 2026. “Sau khi xác định vị trí các mỏ, nhiệm vụ quan trọng tiếp theo là tổ chức khai thác, chế biến sâu để mang lại giá trị cao cho đất nước. Dự thảo luật đã tách nội dung đất hiếm thành một chương riêng, tạo cơ sở cho Chính phủ ban hành văn bản dưới luật, hướng tới hình thành chuỗi giá trị khép kín, hạn chế tối đa xuất khẩu thô”, ông Thắng nói. KHẮC PHỤC BẤT CẬP VỀ QUY HOẠCH KHOÁNG SẢN Nêu ý kiến tại phiên họp, nhiều đại biểu quan tâm đến tiêu chí khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Về nội dung này, ông Thắng cho biết, dự thảo luật đã thiết kế nguyên tắc và tiêu chí cụ thể, nhằm bảo đảm nguồn nguyên liệu ổn định cho các nhà đầu tư thực hiện công trình cấp bách và các dự án chế biến khoáng sản - những lĩnh vực có tính đặc thù, vốn lớn, tác động mạnh đến phát triển kinh tế - xã hội. Với các nhà máy xi măng, khi đã cấp phép đầu tư xây dựng thì mỏ nguyên liệu đi kèm không thể đưa ra đấu giá, vì không phù hợp thực tiễn. “Quy định này nhằm xử lý các tình huống đặc thù như vậy”, ông Thắng nói. Ngoài ra, luật cũng đã giao Chính phủ quy định chi tiết các điều kiện, trình tự khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Trong quá trình khoanh định, sẽ có sự phối hợp giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các địa phương. Theo ông Thắng, mục tiêu là đánh giá đầy đủ các yếu tố như nhu cầu thị trường, hiệu quả sử dụng tài nguyên, năng lực chủ đầu tư, tác động môi trường và sinh kế của người dân, qua đó hình thành chuỗi chế biến sâu trong nước. “Cách làm này giúp kiểm soát rủi ro ngay từ khâu xác lập khu vực không đấu giá, tránh lợi dụng chính sách, nhất là với các loại khoáng sản chiến lược đặc biệt quan trọng. Trong quá trình tổ chức thực hiện, chúng tôi cũng rất quan tâm đến ý kiến của đại biểu Quốc hội về nguy cơ bị lợi dụng cơ chế chỉ định dẫn đến thất thoát”, ông Thắng lý giải. Liên quan quy hoạch dự trữ khoáng sản, Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, đây là khu vực dự trữ có thời hạn 50 năm. Trong khu vực này, chỉ các công trình cấp I không được xây dựng; các công trình từ cấp II trở xuống được phép đầu tư, xây dựng bình thường. Đề cập Quyết định 866 của Thủ tướng về quy hoạch khoáng sản đến 2030, Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường thừa nhận “có nhiều bất cập”. Theo ông, nội dung này đã được trả lời cử tri và đang chờ Luật Quy hoạch được thông qua. Sau đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ trình ban hành văn bản mới. “Chúng tôi dự kiến cơ bản tháo gỡ được các vướng mắc của Quyết định 866 ngay trong tháng 1/2026”, ông Thắng nói. LUÂN DŨNG 3 n Thứ Ba n Ngày 2/12/2025 THỜI SỰ đặc biệt Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng ẢNH: NHƯ Ý Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn đứng thứ 2-3 thế giới, phân bổ tại 21 tỉnh, thành phố. Cơ quan này đang chủ trì xây dựng chiến lược quốc gia về đất hiếm, trình cấp có thẩm quyền ban hành đầu năm 2026. Sẽ có chiến lược quốc gia về đất hiếm “Dự thảo luật đã tách nội dung đất hiếm thành một chương riêng, tạo cơ sở cho Chính phủ ban hành văn bản dưới luật, hướng tới hình thành chuỗi giá trị khép kín, hạn chế tối đa xuất khẩu thô”. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường TRẦN ĐỨC THẮNG nhất, thông qua các biện pháp xúc tiến thương mại, đầu tư, tăng cường kết nối doanh nghiệp, trao đổi thông tin về chính sách, thị trường, thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực mới như kinh tế số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn... Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư Brunei tham gia các dự án như xây dựng Trung tâm Tài chính quốc tế, cơ sở hạ tầng, năng lượng, du lịch và dịch vụ tại Việt Nam. Brunei nhất trí chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam về lĩnh vực Halal, xem xét công nhận lẫn nhau đối với chứng chỉ Halal, phát triển các dự án sản xuất thực phẩm và sản phẩm Halal tại Việt Nam. Hai bên cũng nhất trí Brunei tiếp tục tạo thuận lợi cho các công ty của Việt Nam trong cung ứng dịch vụ dầu khí và tham gia các hoạt động tìm kiếm, thăm dò dầu khí tại vùng biển Brunei; khuyến khích các tập đoàn của Brunei đầu tư thăm dò, khai thác dầu khí tại Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo khẳng định tầm quan trọng của hợp tác quốc phòng, an ninh trong bối cảnh tình hình khu vực còn nhiều thách thức, nhất trí chia sẻ kinh nghiệm và mở rộng hợp tác phòng chống tội phạm có tổ chức như buôn lậu ma túy, mua bán người, đưa người di cư trái phép, khủng bố, tội phạm mạng và rửa tiền. HỢP TÁC BIỂN Hai bên cũng cho rằng hợp tác biển là lĩnh vực quan trọng cần quan tâm thúc đẩy thời gian tới, hoan nghênh việc ký kết Bản ghi nhớ về Hợp tác trong lĩnh vực thủy sản và Bản ghi nhớ về Hợp tác sử dụng đường dây nóng để trao đổi thông tin về khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU); nhất trí triển khai hiệu quả các thỏa thuận, đối thoại và chia sẻ kinh nghiệm và thông tin, cũng như giải quyết các thách thức an ninh trên biển nhằm đảm bảo an ninh và an toàn trên biển. Hai nhà lãnh đạo cũng nhất trí mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực quan trọng khác như giáo dục, văn hóa, du lịch và giao lưu nhân dân nhằm góp phần tăng cường gắn kết và hiểu biết lẫn nhau, góp phần thúc đẩy toàn diện quan hệ hai nước. Về vấn đề Biển Đông, hai bên cam kết duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn và tự do hàng hải và hàng không; kêu gọi các bên kiềm chế, không đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao, pháp lý, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Nhân dịp này, hai bên ra Tuyên bố chung về kết quả chuyến thăm và ký kết 3 văn kiện hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực hợp tác biển, thủy sản và hợp tác phòng chống IUU. BÌNH GIANG Trao 12 văn kiện hợp tác Kết thúc hội đàm, hai nhà lãnh đạo đã chứng kiến lễ trao 12 văn kiện hợp tác quan trọng giữa các bộ, ngành, địa phương và cơ quan hữu quan của hai nước trên các lĩnh vực trụ cột gồm: quốc phòng, an ninh, y tế, tư pháp, giáo dục-đào tạo, tài chính-ngân hàng, hạ tầng chiến lược…; tạo nền tảng pháp lý và động lực mới để đưa quan hệ hợp tác Việt Nam-Lào tiếp tục phát triển sâu sắc, thực chất và hiệu quả hơn nữa trong giai đoạn mới.

Trên tuyến vành đai 2,5 đoạn Đầm Hồng - Quốc lộ 1A, những ngày này, con đường luôn chìm trong lớp bụi dày đặc và tiếng máy móc ầm ầm. Dự án dài 1,3 km, tổng mức đầu tư hơn 1.300 tỉ đồng, sau nhiều năm đình trệ đã thi công trở lại với các hạng mục ngầm như thoát nước, điện, viễn thông... Nhưng việc đào xới kéo dài khiến cả khu dân cư ven tuyến sống trong cảnh bị xới tung. Cùng với đó, xe chở đất cát ra vào liên tục, nhiều xe không phủ bạt; từng lớp bụi xám bốc lên mù mịt mỗi khi gió thổi hoặc phương tiện chạy qua. Người dân cho biết, họ ủng hộ dự án vì kỳ vọng tuyến đường hoàn thành sẽ giúp khu vực khang trang, thoáng đẹp hơn, nhưng thực tế nhiều tháng qua phải sống trong cảnh bụi bẩn, đất đá rơi vãi, vỉa hè thi công dang dở, lối đi bị thu hẹp. Nhà đầu tư đã yêu cầu nhà thầu tưới nước, rửa đường và dựng rào chắn, nhưng theo người dân, việc rửa đường “nhỏ giọt” không đủ giảm thiểu bụi trong những ngày thời tiết Hà Nội hanh khô, gió mạnh. Tuyến đường gom Đại lộ Thăng Long đoạn qua Thiên Đường Bảo Sơn cũng đang trở thành công trường thi công khi tại đây đang thi công dự án nút giao đường Vành đai 3,5 với Đại lộ Thăng Long. Mật độ phương tiện dày đặc, mặt đường xuống cấp, cùng hàng chục xe tải, máy khoan cọc, xe ủi đất hoạt động suốt ngày khiến khu vực chìm trong bụi mù mịt. Chị Minh (thôn Vân Lũng, xã An Khánh), người bán hàng ngay sát tuyến đường, than thở: “Ngày nào tôi cũng phải phủi hàng ba, bốn lần. Bụi bám trắng xoá từ sáng đến chiều. Đứng bán hàng mà phải nín thở vì không nhìn rõ người đi đối diện. Trẻ con đi qua đây đi học mà thương lắm”. Đại diện Đội CSGT số 11 cho biết, kết cấu mặt đường Đại lộ Thăng Long xuống cấp nhanh do ngập úng kéo dài nhiều năm, cộng thêm việc bị dự án thi công chiếm dụng nhiều vị trí khiến xung đột, ùn tắc giao thông thường xuyên xảy ra. Tại cửa ngõ phía Tây Thủ đô, dự án cải tạo nền đường Quốc lộ 32 đoạn Vật Lại - Quảng Oai (dài 1,7 km) cũng bị người dân phản ánh tình trạng bụi bẩn nghiêm trọng. Khởi công đầu năm 2024 và đặt mục tiêu thông xe cơ bản từ tháng 8/2025, đến nay dự án vẫn dở dang. Mặt đường bị đào xới kéo dài hàng trăm mét, nhiều đoạn chỉ được thảm nhựa một chiều rồi “đắp chiếu”. Tình trạng xe tải gây bụi bẩn từ các công trường xây dựng trong nội đô đi ra các hướng cửa ngõ khu vực Thanh Xuân, Pháp Vân, Nguyễn Khoái, Nguyễn Văn Cừ… cũng đang diễn ra phổ biến. VẮNG LỰC LƯỢNG CHỨC NĂNG XỬ LÝ TẬN GỐC Đại diện UBND xã Quảng Oai cho biết, đến nay dự án cải tạo nền đường Quốc lộ 32 mới thi công khoảng 900m, còn lại nhiều đoạn dang dở, nền đường lồi lõm, an toàn giao thông thiếu biển báo, rào chắn. Đại diện Ban QLDA hạ tầng xã Quảng Oai cũng cho biết, nhà thầu thi công chậm, thiếu vật liệu, đào nền đường quá dài khiến hay ngập nước; nhiều hạng mục kỹ thuật chưa được hoàn thiện khiến tuyến đường trở thành điểm nóng về tai nạn giao thông. Dù trời khô ráo thuận lợi, tiến độ vẫn giậm chân tại chỗ, gây bức xúc cho người dân. Đại diện các Đội CSGT địa bàn khu vực phía Tây, phía Nam và phía Bắc Hà Nội cho biết, lực lượng CSGT tuần tra, làm nhiệm 4 THỜI SỰ n Thứ Ba n Ngày 2/12/2025 Ô nhiễm môi trường là một trong 5 điểm nghẽn lớn của Hà Nội; hiện thành phố đang nỗ lực khắc phục. Tại kỳ họp thứ 28 (từ 26-28/11), HĐND TP. Hà Nội thông qua Nghị quyết Ban hành Danh mục di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp, cơ sở y tế, trường học và trụ sở các cơ quan, đơn vị tại đô thị trung tâm không phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt. Theo Nghị quyết, trong đợt 1 có 66 cơ sở phải di dời, trong đó có tới 42 cơ sở sản xuất công nghiệp. Đây là các cơ sở sản xuất công nghiệp nằm trong các khu dân cư, khu vực phát triển đô thị trong đô thị trung tâm gây ô nhiễm môi trường như Nhà máy thuốc lá Thăng Long, Nhà máy Bia Hà Nội... Các cơ sở này sẽ được di dời đến các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung trên địa bàn thành phố. Bà Phùng Thị Hồng Hà, Chủ tịch HĐND TP Hà Nội, cho biết, cùng với di dời, các cơ sở sản xuất công nghiệp phải đổi mới thiết bị, công nghệ, tiết kiệm năng lượng; đảm bảo vấn đề môi trường, nhằm tránh việc di dời cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nơi này đến nơi khác. Quỹ đất sau khi di dời các cơ sở tại khu vực nội đô lịch sử sẽ được ưu tiên xây dựng không gian, công trình công cộng, không xây dựng nhà ở. Ngoài 66 cơ sở trên, thành phố tiếp tục rà soát, lập danh mục các cơ sở sản xuất công nghiệp, trường học và trụ sở các cơ quan, đơn vị trong đô thị trung tâm không phù hợp quy hoạch để ban hành các đợt tiếp theo. Hiện UBND thành phố đang xây dựng nghị quyết về biện pháp và lộ trình cùng với cơ chế hỗ trợ về tài chính, đất đai, nguyên tắc sử dụng quỹ đất sau khi thực hiện việc di dời, bà Phùng Thị Hồng Hà thông tin. LẬP VÙNG PHÁT THẢI THẤP Tại kỳ họp thứ 28, HĐND thành phố cũng ban hành Nghị quyết Quy định thực hiện vùng phát thải thấp trên địa bàn thành phố nhằm cụ thể hóa điểm a khoản 2 Điều 28 Luật Thủ đô năm 2024. Theo lộ trình, từ 1/7/2026, Hà Nội sẽ thí điểm thực hiện vùng phát thải thấp tại một số khu vực tại 9 phường trong vành đai 1; từ 1/1/2028, thực hiện vùng phát thải thấp tại 14 phường từ vành đai 2 trở vào; từ 1/1/2030 thực hiện vùng phát thải thấp tại 36 xã, phường trong vành đai 3. Trong vùng phát thải thấp, thành phố sẽ phát triển hạ tầng giao thông nhằm hỗ trợ chuyển đổi phương tiện, phát triển hệ thống giao thông công cộng (phát triển vận tải công cộng, phát triển không gian đi bộ, đi xe đạp, bố trí các điểm dừng đỗ, hệ thống trạm tiếp năng lượng sạch công cộng). Bên cạnh đó, thành phố cấm mô tô, xe gắn máy khác lưu thông vào vùng phát thải thấp theo khung giờ/thời điểm hoặc khu vực. Ngoài ra, sẽ hạn chế, tiến tới cấm xe ô tô không đáp ứng quy chuẩn khí thải mức 4 lưu thông vào vùng phát thải thấp theo khung giờ/thời điểm hoặc khu vực. Ông Đàm Văn Huân, Trưởng ban Đô thị HĐND TP Hà Nội, cho biết, để triển khai có hiệu quả các biện pháp thực hiện vùng phát Thời gian qua, Hà Nội đã quyết liệt triển khai các biện pháp giảm ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, mới đây thành phố đã quyết định thông qua chủ trương di dời 66 cơ sở sản xuất công nghiệp, trụ sở cơ quan không phù hợp quy hoạch và triển khai vùng phát thải thấp. Chất lượng không khí ở Hà Nội đang ở mức xấu kéo dài, trong khi đó, nhiều dự án giao thông, xây dựng nhà cửa lớn tại các cửa ngõ Hà Nội đã để xe tải chở vật liệu không che chắn gây bụi mù mịt. Di dời cơ sở sản xuất công nghiệp Đường gom Đại lộ Thăng Long bụi mù mịt do công trường thi công Quốc lộ 32 chìm trong công trường cải tạo thi công nhiều năm nay chưa xong ẢNH: PHÙNG LINH Các cơ sở sản xuất công nghiệp, xe máy chạy xăng được xác định là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí ở Hà Nội Thành phố Hà Nội đang lấy ý kiến về việc hỗ trợ chuyển đổi từ mô tô, xe máy chạy nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng xanh, năng lượng sạch. “Bão” bụi xây dựng bủa vây các cửa ngõ Thủ đô THÀNH PHỐ HÀ NỘI QUYẾT LIỆT

Ô NHIỄM LIÊN TỤC VÀ KÉO DÀI Ngày 25/11, lần đầu tiên Bộ Nông nghiệp và Môi trường có văn bản đến 7 địa phương ở miền Bắc để cảnh báo về một đợt ô nhiễm không khí nghiêm trọng và kéo dài sắp xảy ra, đánh dấu một bước tiến quan trọng khi Việt Nam thực hiện dự báo chất lượng không khí làm căn cứ triển khai các giải pháp cấp bách. Đây là cách Bắc Kinh, Trung Quốc đã làm để giảm thiểu tác động của ô nhiễm không khí đến sức khoẻ cộng đồng. Cục Môi trường cho biết, theo số liệu quan trắc từ hệ thống giám sát chất lượng môi trường quốc gia và dự báo khí tượng thủy văn, trong những ngày cuối tháng 11 và đầu tháng 12, khu vực miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội và các tỉnh lân cận sẽ xuất hiện hình thái thời tiết bất lợi (hiện tượng nghịch nhiệt, lặng gió, sương mù), làm giảm khả năng khuếch tán các chất ô nhiễm trong môi trường không khí, dẫn đến nguy cơ nồng độ bụi mịn PM2.5 tích tụ có khả năng tăng cao (AQI vượt mức 150 - mức xấu), ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh tế, xã hội và sức khỏe cộng đồng. Trên thực tế, từ ngày 27/11, Hà Nội vào một đợt ô nhiễm không khí nghiêm trọng và kéo dài với chất lượng không khí vào đêm và sáng phổ biến ở ngưỡng xấu (có hại cho sức khoẻ mọi người) và rất xấu (rất có hại cho sức khoẻ tất cả mọi người). Ô nhiễm liên tục kéo dài ngày 2/12. Đặc điểm của đợt ô nhiễm này là mức độ ô nhiễm nghiêm trọng hơn vào đêm và sáng, cải thiện hơn vào trưa chiều. Hệ thống dự báo chất lượng không khí và cảnh báo sớm cho Hà Nội ghi nhận tình trạng ô nhiễm ở mức xấu và rất xấu tập trung tại thủ đô Hà Nội trong thời gian đêm và sáng. Các địa phương lân cận như Phú Thọ, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Ninh cũng ô nhiễm phổ biến kém (có hại cho người già, trẻ em, người mắc bệnh hô hấp, tim mạch). Hệ thống này cũng nhận định, trong các ngày 3-5/12, chất lượng không khí có thể được cải thiện nhờ một đợt không khí lạnh khiến miền Bắc chuyển mưa rải rác. Tuy nhiên từ khoảng 6/12 (thứ Bảy), ô nhiễm không khí nghiêm trọng lại tái diễn ở Hà Nội và các tỉnh lân cận. 7 ĐỊA PHƯƠNG CẦN TRIỂN KHAI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ Trong công văn gửi đến UBND 7 tỉnh, thành phố có nguy cơ ô nhiễm không khí gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Phú Thọ, Thái Nguyên và Ninh Bình, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị các địa phương này chỉ đạo các đơn vị vệ sinh môi trường, các chủ dự án đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông thực hiện ngay việc tăng cường tần suất quét đường, hút bụi, sử dụng xe chuyên dụng phun nước rửa đường tại các trục giao thông chính, cửa ngõ đô thị. Bộ cũng đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo Sở Xây dựng, Công an xã, phường và chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát các công trường xây dựng trên địa bàn. Yêu cầu thực hiện nghiêm các biện pháp che chắn, vệ sinh xe ra vào công trường, đình chỉ thi công (nếu cần thiết) đối với các công trình không đảm bảo quy định về bảo vệ môi trường, làm phát sinh bụi bẩn, để bùn đất phát tán ra đường. Tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các phương tiện vận chuyển vật liệu xây dựng, phế thải không che chắn kỹ, làm rơi vãi ra đường gây ô nhiễm môi trường. ĐỀ NGHỊ NGÀNH THAN, KHOÁNG SẢN, THÉP, XI MĂNG, ĐIỆN LỰC GIẢM CÔNG SUẤT Bên cạnh việc kiểm soát các nguồn từ giao thông, xây dựng và hoạt động đốt mở do địa phương thực hiện, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng có công văn gửi đến các bộ, ngành, các tập đoàn, doanh nghiệp gồm Tập đoàn, Tổng Công ty Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam, Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Điện lực Việt Nam, Xi măng Việt Nam, Thép Việt Nam đề nghị đảm bảo vận hành hiệu quả hệ thống xử lý khí thải của nhà máy. Bên cạnh đó, rà soát quy trình vận hành, đảm bảo các hệ thống xử lý bụi, khí thải hoạt động ổn định, hiệu quả, đáp ứng các quy chuẩn kỹ thuật môi trường về khí thải liên quan đến các hoạt động sản xuất. Tăng cường tần suất kiểm tra, bảo dưỡng thiết bị nhằm không để xảy ra sự cố đối với hệ thống xử lý khí thải, công trình bảo vệ môi trường trong thời điểm này. Bộ đề nghị các doanh nghiệp chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất của nhà máy, khuyến khích các đơn vị xem xét điều chỉnh giảm công suất hoạt động hoặc dời lịch các công đoạn sản xuất phát sinh nhiều bụi, khí thải (như thổi lò, khởi động lò, nghiền nguyên liệu) sang thời điểm điều kiện thời tiết, khí hậu thuận lợi hơn... Các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm các biện pháp che chắn, phun nước dập bụi và các biện pháp giảm thiểu bụi, khí thải khác tại các khu vực chứa than, nguyên liệu, xỉ thải, các tuyến đường vận chuyển nội bộ và xung quanh nhà máy. Đảm bảo số liệu quan trắc từ hệ thống quan trắc khí thải tự động, liên tục được kết nối, truyền số liệu thông suốt về Sở Nông nghiệp và Môi trường địa phương để theo dõi, giám sát và truyền về Bộ Nông nghiệp và Môi trường theo quy định. Nếu phát hiện thông số tiệm cận ngưỡng cho phép, phải có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả, không để xảy ra tình trạng xả khí thải không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia ra môi trường. NGUYỄN HOÀI 5 n Thứ Ba n Ngày 2/12/2025 THỜI SỰ Tình trạng ô nhiễm không khí ngày 30/11 trên khu vực đường gom Đại lộ Thăng Long, Hà Nội ẢNH: PL Tại Tọa đàm về Cải thiện chất lượng môi trường không khí đô thị gần đây, ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, cho biết, Chính phủ vừa phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2026 - 2030, tầm nhìn 2045 với nhiều mục tiêu quan trọng. Kế hoạch đã nêu 9 nhóm giải pháp tổng thể, toàn diện để đạt các mục tiêu đề ra. Trong đó, một số nhiệm vụ sẽ được tập trung triển khai trong thời gian tới gồm kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông và công nghiệp. Lần đầu tiên, Việt Nam có dự báo chất lượng không khí dài ngày, làm cơ sở để chính quyền các địa phương, lãnh đạo bộ, ngành, doanh nghiệp có giải pháp cải thiện chất lượng không khí lúc cao điểm. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng điểm danh cụ thể các địa phương có nguy cơ ô nhiễm và các nhà máy, doanh nghiệp cần giảm phát thải. Điểm danh "thủ phạm" gây ô nhiễm GIẢM Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ thải thấp, thành phố sẽ thiết lập hệ thống giám sát như: giám sát phương tiện giao thông, hành vi của người dân, giám sát chất lượng không khí. Đồng thời, xây dựng phương án quản lý, kiểm soát, xử lý phương tiện ra vào khu vực vùng phát thải thấp; đồng bộ hạ tầng kỹ thuật với hệ thống camera an ninh, camera giám sát giao thông tích hợp ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI). TRÁNH “ĐÁNH TRỐNG BỎ DÙI” Ông Lê Duy Đằng (trú tại phường Thanh Xuân) cho rằng, các biện pháp thành phố đề ra nếu triển khai thành công sẽ góp phần cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, xe máy chạy xăng được xác định là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm. Tuy nhiên, thành phố cũng cần có biện pháp triển khai quyết liệt, tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, hay một loạt đề án triển khai những năm qua nhưng không thấy đánh giá hiệu quả. Đồng quan điểm, luật sư Nguyễn Tuấn Anh (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho rằng, việc di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp khỏi khu vực nội đô đã được thành phố đặt ra từ lâu. Ngay trong nghị quyết vừa được thông qua cũng nói rõ 9 cơ sở đã có chủ trương di dời theo Nghị quyết 17/NQ-HĐND ngày 8/7/2022 nhưng đến nay vẫn chưa có lộ trình và triển khai. Bên cạnh đó, thành phố cũng cần hỗ trợ các tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng, từ đó các chính sách mới sớm được triển khai và hiệu quả. Ông Đàm Văn Huân cho rằng, ô nhiễm môi trường là một trong những điểm nghẽn của Hà Nội. Để khắc phục điểm nghẽn ô nhiễm môi trường, thành phố cũng đã có nhiều giải pháp, trong đó 2 nghị quyết vừa được thông qua. Thành phố đang lấy ý kiến về việc hỗ trợ chuyển đổi từ mô tô, xe máy chạy nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng xanh, năng lượng sạch. “Các Ban của HĐND thành phố tiếp tục giám sát các đơn vị triển khai các nghị quyết đã được thông qua; đồng thời đốc thúc UBND thành phố chỉ đạo các cơ quan chuyên môn xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp ”, ông Huân nói. THANH HIẾU vụ trên đường hiện nay chỉ dừng xe, kiểm tra và xử lý xe tải chở vật liệu nếu vi phạm trên đường. Việc này gần như là xử lý phần ngọn khi chủ xe và chủ công trình xây dựng ở trong phạm vi hàng rào dự án, CSGT không có chức năng, nhiệm vụ để vào kiểm tra, yêu cầu tuân thủ các quy định của pháp luật. Theo các Đội CSGT, tại các công trình xây dựng, chủ công trường phải tuân thủ các quy định về vệ sinh môi trường, trong đó xe ra vào công trường phải có hệ thống phun rửa, vệ sinh sạch sẽ mới được đi ra đường tham gia giao thông. “Do có chức năng kiểm tra các công trình thi công có phương tiện xe tải ra vào đường giao thông, nên trước đây khi lực lượng Thanh tra giao thông chưa dừng hoạt động, CSGT thường xuyên phối hợp với họ để vào công trường đề nghị chủ công trình, chủ doanh nghiệp xe tải ký các cam kết tuân thủ các quy định của pháp luật về chở vật liệu, phế thải xây dựng. Nhưng nay lực lượng Thanh tra giao thông đã dừng hoạt động, CSGT không còn lực lượng để phối hợp kiểm tra, xử lý của xe tải vị phạm tại gốc (trong các công trình thi công)” - đại diện Đội CSGT số 14 Phòng CSGT Hà Nội nêu thực tế. Đại diện Đội CSGT số 6, Phòng CSGT Hà Nội cũng cho biết, để xử lý xe tải có hiệu quả cả trên đường và công trường thi công, thành phố nên sớm có chỉ đạo hoặc quy định cho lực lượng Công an phường và Thanh tra xây dựng đảm nhận việc này. Từ đó, CSGT có đầu mối, lực lượng để phối hợp đồng bộ. PHÙNG LINH

6 KHOA GIÁO n Thứ Ba n Ngày 2/12/2025 MÂU THUẪN TRONG ĐÀO TẠO Trong báo cáo gửi đại biểu Quốc hội, giải trình, tiếp thu ý kiến về dự án Luật Giáo dục ĐH (sửa đổi), Bộ GD&ĐT lí giải quan điểm về việc không xếp chương trình bác sĩ nội trú (BSNT), chuyên khoa I (CKI), chuyên khoa II (CKII) nằm trong khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân hay khung trình độ quốc gia. Quan điểm của Bộ GD&ĐT, đây là đào tạo nghề, nhằm tích lũy năng lực thực hành và công nhận chuyên khoa. Mục tiêu các chương trình này tập trung đào tạo kĩ năng hành nghề được kiểm chứng trong môi trường bệnh viện. Đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ yêu cầu cấu trúc theo hệ thống tín chỉ chuẩn hóa, viết luận văn, luận án và có sản phẩm nghiên cứu, công bố khoa học. “Nếu quy đổi BSNT, CKI, CKII thành trình độ sau ĐH sẽ làm lệch hệ thống bằng cấp, phá vỡ tính thống nhất của khung trình độ quốc gia; làm mờ ý nghĩa của bằng thạc sĩ, tiến sĩ; gây khó khăn trong công nhận văn bằng và chuyển đổi tín chỉ quốc tế”, Bộ GD&ĐT cảnh báo. Bộ viện dẫn mô hình đào tạo tại các nước như Mỹ, Đức, Australia… nội trú là giai đoạn đào tạo thực hành chuyên khoa, kết thúc bằng chứng nhận hành nghề, không phải học vị, học thuật. Về thiết kế chương trình, hiện tại, các chương trình đào tạo BSNT, CKI, CKII là đào tạo nghề nghiệp mang tính năng lực thực hành, cấu trúc không giống đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ với môn học tiên quyết, môn học cốt lõi, kĩ năng nghiên cứu, sản phẩm nghiên cứu, đóng góp mới. Đào tạo chuyên khoa y tế gắn chặt với chuẩn năng lực hành nghề, đạo đức nghề nghiệp và an toàn người bệnh. Những yêu cầu này không thể thay thế cơ chế bảo đảm chất lượng học thuật thông thường như kiểm định chương trình hay chuẩn đầu ra hoặc ngược lại. Nếu chuyển các chương trình đào tạo chuyên sâu trong y học sang hệ thống giáo dục sau ĐH thuộc giáo dục quốc dân, việc kiểm định và đánh giá có nguy cơ tách rời môi trường hành nghề thực tiễn, dẫn đến suy giảm tính chuyên nghiệp, hiệu quả đào tạo và tiềm ẩn rủi ro. Mặt khác, việc xếp BSNT, CKI, CKII vào trình độ sau ĐH như thạc sĩ, tiến sĩ sẽ tạo ra tiền lệ đối với các lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật, thể thao thành tích cao, an ninh, quốc phòng, hàng không, hàng hải, công an, tòa án, kiểm sát… Trước quan điểm của Bộ GD&ĐT, đại biểu Quốc hội Nguyễn Tri Thức, Thứ trưởng Bộ Y tế khẳng định, việc xem đào tạo BSNT, CKI, CKII như chứng chỉ hành nghề là chưa đúng. Hiện nay, sau khi tốt nghiệp cử nhân y khoa, bác sĩ chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên theo hướng giảng dạy ở các trường ĐH, thiên về học thạc sĩ, tiến sĩ. Nhóm thứ hai học CKI, CKII, BSNT làm bác sĩ tại các cơ sở khám chữa bệnh. Trong đó, lực lượng BSNT là tinh hoa của tinh hoa trong ngành Y. Vì vậy, xem CKI, CKII, BSNT như đào tạo chứng chỉ hành nghề là không chính xác. Hơn 50 năm qua, những tranh luận về việc công nhận văn bằng trong đào tạo BSNT, CKI, CKII do sự thiếu thống nhất giữa Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT đã khiến hàng nghìn bác sĩ trẻ rơi vào vòng luẩn quẩn của các quy định chồng chéo. Đây là nhóm học viên được đào tạo theo chuẩn thực hành lâm sàng cao nhất của hệ thống y khoa Việt Nam, nhưng lại chưa có một “trọng tài” đứng ra xác lập khung và chuẩn văn bằng thống nhất. Năm 2021, báo Tiền Phong có bài viết “Bị cấp thiếu bằng, bác sĩ nội trú kêu cứu” để phản ánh thực tế tréo ngoe hiện nay đối với đào tạo y khoa. BSNT, CKI, CKII không nằm trong khung năng lực trình độ quốc gia và do đó, không có cơ sở để tính lương, học tiếp tiến sĩ để giảng dạy... CẦN SỰ THỐNG NHẤT GS.TS Lê Ngọc Thành, Hiệu trưởng Trường ĐH Y dược (ĐH Quốc gia Hà Nội), Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Y, Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam phân tích, chương trình đào tạo BSNT đã bao hàm toàn bộ nội dung chương trình thạc sĩ, CKI, ngoài ra thời gian thực hành sâu hơn, vất vả hơn nhiều chương trình thạc sĩ, CKI. GS. Lê Ngọc Thành cho rằng đang có sự nhầm lẫn trong đối sánh với quốc tế. Các nước tiên tiến trên thế giới, ngành y khoa đào tạo cơ bản giống Việt Nam, giai đoạn cơ bản (đào tạo đại học), giai đoạn chuyên sâu (CKI, CKII, BSNT). Giai đoạn chuyên sâu do Bộ Y tế đảm nhận nhưng nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tại Việt Nam, đào tạo chuyên sâu không nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân nên mới nảy sinh những tranh cãi. Trong khi tiến sĩ, thạc sĩ y khoa lại nằm trong hệ thống này. Để tránh những bất cập, GS. Lê Ngọc Thành đề nghị giai đoạn đào tạo chuyên sâu của y khoa phải được đưa vào hệ thống. Nhưng bác sĩ CKI muốn học thạc sĩ, bác sĩ CKII muốn học tiến sĩ, có thể học bổ sung thêm các mô-đun còn thiếu và bảo vệ luận văn, luận án để có bằng. "Vì nội dung đào tạo CKI gần giống chương trình thạc sĩ, chỉ khác không làm luận văn tốt nghiệp. Nội dung chương trình đào tạo bác sĩ CKII gần giống chương trình đào tạo tiến sĩ, thậm chí luận văn tốt nghiệp có bố cục như luận án tiến sĩ), điểm khác là một số môn phụ trợ, chuyên đề, bài báo khoa học bắt buộc…. vì đào tạo chủ yếu tập trung tay nghề”, ông Thành nêu. Điểm cốt lõi hiện nay do chưa có trọng tài. Ông Thành khẳng định, lí do hai bộ đưa ra đều có lí nhưng không theo thông lệ quốc tế. Ông mong Chính phủ chủ trì, triệu tập Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp… để cùng bàn thảo, đưa ra chính sách thống nhất và hợp lí nhất. Đào tạo y khoa rất dài, ít nhất 7 năm, các quy định bằng cấp không thống nhất, gây khó cho người học và cơ quan quản lí. Những bất cập về chất lượng khó có thể truy xét trách nhiệm thuộc về ai. Trong đào tạo y khoa, chương trình đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ hướng tới phương pháp luận, tư duy nghiên cứu, xuất bản khoa học và đóng góp học thuật; chương trình đào tạo BSNT, CKI và CKII thiết kế rèn kĩ năng thực hành chuyên sâu, năng lực xử lí bệnh lí phức tạp, tham gia các quy trình can thiệp, cấp cứu, thủ thuật, những nhiệm vụ trực tiếp gắn với sinh mạng bệnh nhân. Đặc biệt, đào tạo BSNT gắn với bệnh viện (người học ở nội trú tại bệnh viện để học). Họ không học, nghiên cứu kiến thức hàn lâm mà tập trung kiến thức, kĩ năng hành nghề thực tế, được dạy theo phương pháp cầm tay chỉ việc. Chính sự vênh này đã tạo ra điểm nghẽn khiến các chương trình chuyên sâu của y khoa khó được xếp vào bậc đào tạo học thuật truyền thống của hệ thống giáo dục quốc dân. Nếu xếp BSNT tương đương thạc sĩ, tiến sĩ, chuẩn học thuật bị phá vỡ. Nhưng nếu đưa ra ngoài hệ thống, những giá trị thực tế của y khoa vốn cao hơn nhiều các ngành khác sẽ bị coi nhẹ. Sự chông chênh trong hệ thống dẫn đến một thực tế khiến những người trong cuộc khó chấp nhận: BSNT trực ngày đêm tại bệnh viện, xử lí hàng trăm ca bệnh trong 3 năm học nhưng lại không được công nhận tương đương với một luận văn thạc sĩ kéo dài vài chục trang giấy, thời gian đào tạo chỉ 2 năm. NGHIÊM HUÊ Ngành Y khoa tồn tại hai hệ thống văn bằng đối với người học. Hơn 50 năm qua, Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT chưa tìm được tiếng nói chung để giải quyết vấn đề này. Thiếu “trọng tài” công nhận bằng cấp GS.TS Lê Ngọc Thành (đứng ngoài cùng bên trái) thăm khám bệnh nhân ẢNH: HOA BAN Giờ thực hành của sinh viên khối ngành sức khỏe ẢNH: NGHIÊM HUÊ SIẾT ĐÀO TẠO NGÀNH Y: Trước những tranh luận về bằng cấp trong đào tạo y khoa hiện nay, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn khẳng định, Luật Giáo dục ĐH không can thiệp vào quản lí, đào tạo chuyên khoa y tế, chỉ quy định nguyên tắc chung với đào tạo trình độ ĐH, thạc sĩ của các ngành, lĩnh vực theo đúng phạm vi quản lí nhà nước mà bộ được giao. Các chương trình đào tạo bác sĩ chuyên khoa là đào tạo năng lực, kĩ năng sâu sau ĐH thuộc quản lí của Bộ Y tế. Bao gồm nội dung chuyên môn, chuẩn năng lực, điều kiện thực hành lâm sàng, chương trình đào tạo để cấp văn bằng trong hệ thống quốc dân đối với thạc sĩ. Việc đào tạo đặc thù như bác sĩ CKI, CKII vẫn do Bộ Y tế tiến hành đào tạo như trước đây. Trong dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Giáo dục ĐH đang trình Quốc hội, Bộ GD&ĐT đã đưa vào nội dung: Chương trình đào tạo chuyên sâu thuộc lĩnh vực khoa học sức khỏe, cấp bằng BSNT, bác sĩ chuyên khoa do Bộ Y tế quản lí. Nhưng về vấn đề công nhận bằng cấp, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn để ngỏ không trả lời.

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==