6 KHOA GIÁO n Thứ Sáu n Ngày 28/11/2025 ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN ĐA SỐ NGHỈ HƯU Cả nước có khoảng 36 cơ sở giáo dục ĐH tổ chức đào tạo y khoa (bác sĩ đa khoa, bác sĩ y học cổ truyền). Trong đó, có 18 trường công lập, còn lại ngoài công lập. Khu vực phía Bắc tập trung nhiều trường ĐH công lập đào tạo y khoa, khu vực phía Nam tập trung nhiều trường ĐH tư thục đa ngành. Phần lớn các trường công lập đào tạo y khoa đều là các trường đơn ngành (chỉ tập trung đào tạo nhóm ngành liên quan đến sức khỏe). Ngoài công lập, y khoa chỉ là một ngành học trong trường đa ngành. Duy nhất có 2 trường ngoài công lập đào tạo đơn ngành sức khỏe là Trường ĐH Phan Châu Trinh và Trường ĐH Buôn Ma Thuột. Có thể thấy, thị trường đào tạo y khoa tại Việt Nam thời gian gần đây khá sôi động, đa dạng với sự tham gia tới 50% số lượng trường tư thục. Trường ĐH tư thục đầu tiên đào tạo y khoa là Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội. Sau đó, hàng loạt trường đăng kí mở ngành đào tạo như Trường ĐH Phenikaa, Trường ĐH Đại Nam, Trường ĐH Hòa Bình, Trường ĐH Duy Tân, Trường ĐH Tân Tạo, Trường ĐH Vinuni… Các yêu cầu, điều kiện để mở ngành đào tạo khối ngành sức khỏe theo quy định tại Thông tư số 12 của Bộ GD&ĐT và Thông tư 02 có tính đến đặc thù so với các ngành khác. Đối với các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe, giảng viên và người hướng dẫn thực hành các môn học, học phần liên quan đến khám, chữa bệnh phải có chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, đã hoặc đang làm việc trực tiếp tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đủ điều kiện là cơ sở thực hành trong đào tạo ngành theo quy định của Chính phủ. Ngoài yêu cầu về trình độ đội ngũ giảng viên chung, ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe, phải đáp ứng các điều kiện như ngành y khoa phải đảm bảo ít nhất 15 tiến sĩ của các môn chính như y sinh, nội khoa, ngoại khoa… Tuy nhiên, những điều kiện này mới chỉ ràng buộc về số lượng và trình độ. Nhưng nếu bóc tách sâu hơn, bức tranh đào tạo y khoa tại các trường ĐH của Việt Nam đa sắc màu, đủ số lượng nhưng chất lượng cần đặt dấu hỏi. Đối với các trường công lập, đội ngũ giảng viên y khoa đều đang trong độ tuổi lao động với trình độ tiến sĩ, PGS, GS. Một số trường tư thục đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, PGS, GS đều đã nghỉ hưu. Ví dụ, ngành y khoa theo thông tin 3 công khai trên trang điện tử của Trường ĐH Hòa Bình, năm 2024, có 9 PGS sinh năm từ 19461962; có 2 GS sinh năm 1940 và 1944; 9 tiến sĩ sinh từ năm 1954-1967. Có thể nói, trong số 30 giảng viên/cán bộ của ngành y khoa, Trường ĐH Hòa Bình, số người đang trong tuổi lao động đếm trên đầu ngón tay. Tại Trường ĐH Đại Nam, phóng viên chỉ tìm được thông tin 3 công khai năm học 2023-2024. Trong đó ngành y khoa có 28 cán bộ/giảng viên với 5 PGS sinh từ năm 1948-1962; có 5/6 tiến sĩ sinh từ năm 1952-1963 (đã nghỉ hưu); có 3 bác sĩ chuyên khoa II, ở tuổi từ 62-77 tuổi. Số còn trong độ tuổi lao động là thạc sĩ hoặc ĐH. Theo khảo sát của Tiền Phong, thông tin giảng viên cơ hữu trên trang tin điện tử của Trường ĐH Thành Đông, cập nhật đến năm học 2024-2025 cho thấy, ngành y học cổ truyền có 15 giảng viên. Trong đó, 2/3 PGS sinh năm 1942, 1944; có 8 tiến sĩ, người cao tuổi nhất sinh năm 1940, ít tuổi nhất sinh năm 1957. Một chuyên gia đặt câu hỏi, sử dụng đội ngũ giảng viên phần lớn đã nghỉ hưu, việc đảm bảo thời gian giảng dạy của những trường này như thế nào? Dù nghỉ hưu nhưng họ vẫn làm việc 40 giờ/tuần. SIẾT TỪ GỐC GS.TS Trần Diệp Tuấn, Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Y Dược TPHCM đồng tình với quan điểm của Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Hòa Bình về chủ trương siết chặt đào tạo những ngành đặc thù, trong đó có ngành y khoa. GS. Diệp Tuấn cho rằng, khi số lượng trường được mở ngành quá nhiều nhưng không ít cơ sở chưa đảm bảo chất lượng. Tình trạng này bắt nguồn từ việc cấp phép mở ngành chưa đủ chặt chẽ. Ông Tuấn đề xuất, việc mở ngành đào tạo bác sĩ phải được siết chặt ở mức cao nhất. Ở nhiều quốc gia, cơ quan quản lí yêu cầu kiểm định chương trình trước khi cấp phép. Việt Nam đang làm ngược quy trình, cho phép mở ngành, đào tạo xong một khóa mới kiểm định. Điều này khiến chất lượng khó được đảm bảo ngay từ đầu. Bên cạnh đó, đội ngũ kiểm định phải là những người am hiểu sâu sắc về đào tạo y khoa. Việc thẩm định mở ngành, theo ông, phải đặc biệt nghiêm ngặt vì đào tạo bác sĩ không giống bất kì ngành nghề nào khác. Việc mở ngành dựa theo tiêu chí chung của các lĩnh vực khác là không phù hợp. Thực tế mở ngành y ở nhiều cơ sở hiện nay chủ yếu dựa vào việc kí hợp đồng với bác sĩ tại các bệnh viện. GS. Trần Diệp Tuấn khẳng định, cách làm này làm sai lệch bản chất đào tạo y khoa. Bệnh viện là nơi thực hành, các bác sĩ giảng dạy thực hành quan Chưa bao giờ vấn đề đào tạo y khoa (bác sĩ đa khoa) tại Việt Nam lại nóng như hiện nay. Đã đến lúc cần “siết” lại chất lượng đào tạo của ngành học đặc thù, liên quan đến chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh của người dân hiện tại và tương lai. Siết đào tạo ngành Y Sinh viên trường Y lựa chọn ngành học bác sĩ nội trú năm 2025 ẢNH: NGHIÊM HUÊ CHUYỆN HÔM NAY Y khoa (bác sĩ) là ngành học đặc thù đào tạo đội ngũ bác sĩ khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe con người, đương nhiên đòi hỏi bác sĩ phải được đào tạo chuẩn chỉ từ các kĩ năng nhỏ nhất như cầm kim khâu, dao mổ, vị trí đặt ống nghe hay tìm ven… Trước đây, đào tạo y khoa là “đặc quyền” của các trường y dược. Lâu đời nhất tại Việt Nam là Trường Đại học Y Hà Nội với lịch sử hơn 120 năm. Sau đó là các trường như Y dược TPHCM, Y dược Thái Bình, Y dược Hải Phòng, Y dược Cần Thơ, Y khoa Vinh… và các trường y dược trực thuộc 3 ĐH vùng, 2 ĐH quốc gia. Đến nay, các trường y dược đã mất độc quyền đào tạo y khoa do các trường ĐH đa ngành, ngoài công lập cùng lấn sân. Cả nước hiện có tới 36 cơ sở giáo dục ĐH đào tạo y khoa. Ông Nguyễn Ngô Quang, Cục trưởng Cục Khoa học Công nghệ và Đào tạo (Bộ Y tế) từng nói: “Tôi cũng không hình dung nổi, khoảng 5-10 năm nữa, tôi và các thầy nghỉ hưu, rồi chúng ta sẽ ốm. Các bác sĩ, điều dưỡng chữa bệnh, chăm sóc cho chúng ta lại có những sai sót về y khoa. Mà họ toàn là học trò của mình, khi đó chúng ta giải trình với xã hội thế nào”. Trồng cây như thế nào, kết trái sẽ như thế ấy! Sản phẩm của ngành y 5-10 năm sau phụ thuộc vào đội ngũ các nhà quản lí, các thầy ở các trường của hôm nay. Sự dễ dãi hay chỉ là cái tặc lưỡi nhắm mắt cho qua, hậu quả sẽ khôn lường. Có lẽ những người thầy, người làm quản lí cũng đã nhận ra lỗ hổng của quá trình mở ngành, đào tạo của nhóm ngành sức khỏe hiện nay. Những người trong ngành sốt ruột, lo lắng vì những tiêu chuẩn mở ngành chỉ là những con số mà có thể dễ dàng lấp đầy bằng nhiều tiểu xảo; chất lượng thả nổi từ đào tạo đến thực hành. Một bệnh viện cõng sinh viên 11 trường y đến thực tập, hàng chục sinh viên xếp hàng để thăm khám một bệnh nhân; nhà trường phó mặc sinh viên thực hành lâm sàng cho bệnh viện… Đầu vào điểm sàn của Bộ GD&ĐT như thế nào, trường tuyển sinh như thế ấy. Cùng về y khoa, nhưng giữa các trường có khi chênh nhau tới gần chục điểm đầu vào. Có người nhận định, điểm chuẩn không quyết định chất lượng đầu ra, nhưng thực tế, nếu không đạt được tới một chuẩn nhất định, người học khó có thể tiếp nhận được trọn vẹn kiến thức chuyên môn đặc thù, hoặc nhà trường phải hạ thấp chuẩn để phù hợp với năng lực người học. Chính vì vậy, chủ trương siết chất lượng đào tạo y khoa nhận được sự đồng thuận cao, không chỉ của các chuyên gia. Đào tạo ngành y sẽ cần các chốt chặn: quy trình cấp phép mở ngành; chuẩn đầu vào; chương trình đào tạo được kiểm định theo chu trình; kì thi đánh giá năng lực hành nghề cấp quốc gia. Khi những chốt chặn đồng bộ, người dân không còn băn khoăn lo “truy vết” bằng cấp của bác sĩ đang chăm lo sức khỏe cho mình, chất lượng đội ngũ cũng sẽ đồng đều giữa các khu vực phát triển và khu vực khó khăn. Đội ngũ giáo viên đã được nâng chuẩn do có hàng loạt chính sách đi kèm. Đã đến lúc thầy thuốc cũng cần được nhìn nhận đúng vai trò, trách nhiệm. Cần chấm dứt tình trạng mở ngành y đào tạo theo phong trào, bởi hậu quả có thể phải trả giá bằng sinh mạng của người khác. N.H Nghịch lí TIẾP THEO TRANG 1
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==