Báo Tiền Phong số 325

7 n Thứ Sáu n Ngày 21/11/2025 GIỚI TRẺ TÌNH NGUYỆN VỀ VÙNG XA Năm 2006, khi ngành Giáo dục Hà Giang (cũ) thiếu giáo viên trầm trọng, nhất là ở những xã vùng sâu, vùng xa, cô giáo Cao Thị Thúy Hằng đã làm đơn tình nguyện xung phong nhận nhiệm vụ tăng cường lên trường PTCS Tả Phìn (Đồng Văn), cách nhà gần 150 km. “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng/Gian khổ sẽ dành phần ai. Mình đang ở vùng thuận lợi, chưa cống hiến được nhiều, khi nghe tiếng gọi của Đảng và trách nhiệm của nghề không cho phép mình lùi bước”, cô Hằng nói. Tuy nhiên, ngày cô nhận quyết định lên đường thì chồng cô cũng được điều động công tác xa nhà. Cả hai vợ chồng đứng giữa lựa chọn khó khăn: con gái 7 tuổi sẽ gửi ai chăm sóc? Sau nhiều đắn đo, cô Hằng quyết định mang con gái đi theo mẹ. Hai mẹ con được bố trí ở căn phòng tập thể của Trường PTCS Tả Phìn, bắt đầu hành trình “gieo chữ” giữa vùng rừng núi heo hút. Thế nhưng chỉ sau một năm, cô buộc phải gửi con trở về Vị Xuyên. Thời tiết khắc nghiệt khiến bé ốm đau triền miên, lại thường xuyên bị bọ chó cắn khắp người. Không thể vin vào hoàn cảnh để xin chuyển về xuôi, cô Hằng đành để con gái 8 tuổi ở nhà một mình: tự nấu nướng, tự giặt giũ, tự học hành, còn cô tiếp tục bám trường, bám lớp ở Tả Phìn. “Thi thoảng cuối tuần tôi mới chạy về thăm con. Mỗi lần gặp, con bé ôm lấy mẹ òa khóc. Khi tôi quay lại trường, con chạy theo gọi trong nước mắt: Mẹ ơi… mẹ ơi… Những hình ảnh ấy cứ ám ảnh, đau thắt lòng, tôi chỉ biết cắn răng quay đi”, cô Hằng nhớ lại. VƯỢT DỐC ĐÁ ĐỂ VẬN ĐỘNG HỌC SINH ĐẾN LỚP Trường PTCS Tả Phìn nằm giữa thung lũng núi đá tai mèo của huyện Đồng Văn (cũ) - một trong những xã xa trung tâm và khó khăn nơi địa đầu của Tổ quốc, chưa có điện thắp sáng. Học sinh 100% là người Mông, nhiều em chưa nói sõi tiếng Kinh. Cô Hằng kể, những ngày đầu đặt chân lên trường PTCS Tả Phìn, cô có phần hoảng sợ trước sự thiếu thốn “đến mức không tưởng tượng nổi”. Mùa Đông nơi đây mây mù bao phủ, rét thấu da thịt, nhiệt độ có lúc xuống đến 0oC. Nước sinh hoạt hiếm đến mức mỗi ngày thầy cô phải chờ từng giọt nước rỉ ra từ kẽ đá, hứng mãi mới đầy được một can nhỏ. “Hầu hết người dân không biết tiếng Kinh. Có lần tôi đi chợ mua quả trứng hay bó củi cũng bất lực vì không hiểu tiếng Mông, người bán không hiểu tiếng Kinh. Tôi làm cách nào họ cũng không bán cho nên cứ đứng giữa chợ mà rơi nước mắt”, cô Hằng kể. Vượt qua những cú sốc ban đầu, cô Hằng tự nhủ: “Đã lên đây rồi thì phải cố gắng làm thật tốt, thậm chí tốt hơn cả kỳ vọng của mọi người. Mình đã chọn đi thì phải cống hiến, phải phấn đấu”. Cô cấp tốc học tiếng Mông qua sự chỉ dạy của các đồng nghiệp là người bản địa. Khi đa số học sinh còn chưa sõi tiếng Kinh, cô lựa chọn cách giảng bài thật chậm, dùng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu. Cô sưu tầm tranh ảnh làm đồ dùng dạy học. Dần dần cô sử dụng song ngữ, vừa tiếng Kinh, vừa tiếng Mông để truyền đạt kiến thức và kết nối với các em. Do cuộc sống quá nghèo khó, nhận thức còn hạn chế nên nhiều phụ huynh vẫn coi việc học của con chỉ là chuyện thứ yếu. Trẻ thường được giữ ở nhà chăn bò, cắt cỏ. Những ngày giáp Tết, học sinh nghỉ học hàng loạt để lên núi lấy củi về đốt chống rét. Bởi vậy, công tác vận động học sinh đến lớp luôn là cuộc chiến đầy gian nan. Cô Hằng cùng đồng nghiệp nhiều năm liền phải vượt những dốc đá dựng đứng, leo đèo, bám đá, đến từng nhà để thuyết phục phụ huynh. Không ít phụ huynh tìm cách trốn tránh, lấy lý do không cho con đi học. Thậm chí, có nhà nghe tiếng cô giáo đến là đóng cửa kín trốn trong nhà. Chính từ sự bền bỉ, tâm huyết của cô Hằng và đồng nghiệp, học sinh ở Tả Phìn dần đi học đầy đủ hơn, yêu con chữ hơn. Giữa núi rừng giá lạnh, những tiếng “ê”, “a” tập đọc vang lên mỗi ngày, như hơi ấm xua đi cái khắc nghiệt của vùng cao. TRÁI NGỌT Sau 3 năm bám bản tại Tả Phìn, cô Hằng được chuyển công tác về Vị Xuyên, gần nhà. Tuy nhiên, cô lại tiếp tục làm đơn xin lên dạy tại Trường Tiểu học A Minh Tân, thuộc xã vùng 3 biên giới, cách nhà 25 km. Trường Tiểu học A Minh Tân khi đó đặc biệt khó khăn. Trường chính chỉ có 5 lớp, chưa đến 100 học sinh, còn lại là các điểm lẻ nằm sâu trong núi, cách từ 7-50 km. Có điểm trường giáo viên chỉ có thể đi bộ băng suối, vượt dốc núi mới tới nơi. Học sinh ở xa đi bộ vài giờ mới đến lớp nên đi học thất thường. Nhiều em chưa sõi tiếng Kinh, việc dạy đọc - viết tiếng Việt là cả hành trình kiên trì của giáo viên. Thương học sinh, năm 2010, các thầy cô giáo tham mưu địa phương huy động học sinh về học theo mô hình bán trú dân nuôi. Đến tháng 2/2011, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Minh Tân được thành lập, tạo môi trường học tập ổn định hơn. Lúc này, cô Hằng và các giáo viên trong trường không chỉ dạy chữ mà còn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng học sinh hằng ngày. Cô buộc phải cai sữa sớm cho con trai thứ hai và gửi con về nhờ bà ngoại chăm sóc. “Thương con bao nhiêu, tôi lại càng thương học trò bấy nhiêu. Những ngày đầu ở nội trú, nhiều em khóc thâu đêm vì nhớ bố mẹ. Vì thế, mình phải vỗ về động viên, giúp các em có điểm tựa cảm nhận trường học như chính ngôi nhà thứ hai của mình. Từ đó, các em hứng thú học hành, hiểu được vươn lên thoát nghèo bằng tri thức”, cô Hằng chia sẻ. Để thu hút học sinh đến lớp, cô đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin và có nhiều sáng kiến được công nhận, nhân rộng, mang lại hiệu quả rõ rệt cho nhà trường. Nhờ sự tâm huyết ấy, Trường Tiểu học Minh Tân dần “thay da đổi thịt”, từ điểm trường khó khăn được xem là “vùng trũng” về học tập trở thành điểm sáng nổi bật của địa phương. Cô Hằng cùng nhiều đồng nghiệp tình nguyện ở lại trường cả những buổi nghỉ để kèm cặp, củng cố kiến thức cho học sinh mà không nhận một đồng thù lao. Không chỉ nâng cao chất lượng đại trà, cô còn chú trọng bồi dưỡng học sinh mũi nhọn. Những năm qua, trường liên tục có học sinh đạt thành tích cao trong các cuộc thi học sinh giỏi và viết chữ đẹp. Riêng năm học vừa rồi, trong đội tuyển học sinh giỏi gồm 19 em do cô phụ trách, có tới 17 em đạt giải cấp huyện. Bên cạnh đó, cô còn là báo cáo viên trong dự án Mô hình trường học mới giai đoạn 20132016 và sau đó là chương trình giáo dục phổ thông 2018, trực tiếp hỗ trợ nhiều trường vùng cao triển khai kỹ thuật dạy học. Sự nghiệp trồng người của cô Hằng được đo bằng những hi sinh thầm lặng. Ngẫm lại hành trình đã qua, cô Hằng hạnh phúc rưng rưng vì những gì mình đã cống hiến và được đền đáp xứng đáng. Hai con lớn lên trong thiếu thốn tình cảm của bố mẹ nhưng trưởng thành kiên cường. Con gái lớn 12 năm liền là học sinh xuất sắc, tốt nghiệp loại xuất sắc một trường đại học tốp đầu ở Hà Nội, đang làm việc cho một công ty nước ngoài. Con trai đang là lớp trưởng lớp chuyên Hóa. Nhiều thế hệ học trò người Dao, người Mông, người Tày đã lớn lên, trưởng thành từ bàn tay cô Hằng. Các em dám ước mơ, dám bước ra khỏi những nếp nhà vách đất bằng tri thức. LƯU TRINH Hai lần tình nguyện đến những điểm trường vùng sâu, vùng xa khó khăn nhất, nhiều năm ăn ngủ cùng học trò trong căn phòng bán trú, mang con chữ vượt núi, vượt rét và chịu biết bao thiệt thòi, hi sinh thầm lặng, cô giáo Cao Thị Thúy Hằng (Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Minh Tân, Hà Giang, tỉnh Tuyên Quang) đã dành trọn thanh xuân cho sự nghiệp giáo dục vùng cao. Cô Cao Thị Thúy Hằng là một trong 80 giáo viên tiêu biểu được T.Ư Hội LHTN Việt Nam và Bộ GD&ĐT vinh danh trong chương trình “Chia sẻ cùng thầy cô” năm 2025. Sau 10 năm triển khai, chương trình đã tôn vinh 576 thầy cô giáo - những con người bình dị mà cao quý, ngày ngày lặng lẽ bám trường, bám bản gieo chữ, thắp sáng tương lai cho học trò ở những vùng đất còn nhiều khó khăn. Theo Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Lê Quân, các giáo viên tiêu biểu chương trình “Chia sẻ cùng thầy cô” là những “ngọn lửa” thắp sáng niềm tin, khát vọng học tập và minh chứng sống động cho tinh thần yêu nghề, tận tụy và tính nhân văn của người nhà giáo. Cô Cao Thị Thúy Hằng (thứ 2, từ phải sang) nhận Bằng khen trong chương trình “Chia sẻ cùng thầy cô” do Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Lê Quân (bên phải) và Bí thư T.Ư Đoàn, Chủ tịch T.Ư Hội LHTN Việt Nam Nguyễn Tường Lâm trao tặng ĐIỂM TỰA TRI THỨC VÙNG ĐẤT KHÓ Bài cuối: “Ngọn lửa” thắp sáng khát vọng học tập Cô Cao Thị Thúy Hằng luôn tận tụy dạy dỗ học sinh vùng cao yêu lấy con chữ để vươn lên thoát nghèo bằng tri thức

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==