11 n Thứ Năm n Ngày 13/11/2025 KINH TẾ Sau gần nửa năm triển khai Nghị quyết số 68, Bộ Tài chính đã thông tin về kết quả bước đầu. Chia sẻ với báo chí, ông Nguyễn Đức Tâm - Thứ trưởng Bộ Tài chính - cho biết, từ tháng 5 năm nay - khi Nghị quyết 68 được ban hành, bình quân mỗi tháng có hơn 18.500 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 43% so với bình quân 4 tháng đầu năm. Môi trường kinh doanh có những cải thiện đáng kể. Hơn 2.940 thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa. Khảo sát của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) cho thấy, hơn 46% doanh nghiệp "kỳ vọng/ rất kỳ vọng" vào hiệu quả của Nghị quyết số 68, đạt điểm trung bình cao nhất trong các chỉ báo niềm tin kinh doanh. Nghị quyết 68 đặt mục tiêu, năm 2030 Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp. Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm cho rằng, nếu chỉ cần một phần nhỏ trong số 5,2 triệu hộ kinh doanh mạnh dạn chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp, mục tiêu này hoàn toàn có khả thi. Theo ông Tâm, thực tế cho thấy, nhiều hộ kinh doanh vẫn còn tâm lý e ngại khi chuyển đổi, do chi phí tuân thủ pháp luật giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp vẫn còn khoảng cách khá lớn. Đồng thời, hộ kinh doanh chưa nắm rõ các quy định pháp luật, chưa quen với việc quản lý sổ sách kế toán. Đặc biệt, hộ kinh doanh trước đây được áp dụng thuế khoán, chế độ sổ sách, hóa đơn, chứng từ kế toán đơn giản hơn nhiều so với doanh nghiệp. Để tháo gỡ những rào cản trên, Nghị quyết 68 đưa ra chủ trương quan trọng, từ năm 2026 sẽ bỏ hình thức thuế khoán. Để hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi, có thể lên thành doanh nghiệp, Bộ Tài chính đang khẩn trương nghiên cứu sửa đổi Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân; nghiên cứu xây dựng Luật Kinh doanh cá thể để thu hẹp tối đa khoảng cách về tổ chức quản trị và chế độ tài chính kế toán giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Hệ thống khai - nộp thuế điện tử, phần mềm hoá đơn điện tử, phần mềm kế toán sẽ được cung cấp miễn phí, đặc biệt ưu tiên hỗ trợ cho các hộ kinh doanh còn khó khăn trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đổi mới công tác kiểm tra, giám sát theo hướng trực tuyến, dựa trên phân loại rủi ro, giảm áp lực, tăng minh bạch và tạo môi trường thân thiện hơn cho doanh nghiệp. DỠ BỎ RÀO CẢN TIẾP CẬN VỐN, ĐẤT ĐAI… Ông Tâm chỉ rõ, trở ngại lớn nhất với kinh tế tư nhân hiện nay là tiếp cận các nguồn lực, đặc biệt vốn, đất đai, công nghệ và nhân lực chất lượng cao. Để hỗ trợ khu vực tư nhân, lãnh đạo Bộ Tài chính cho biết một số giải pháp sẽ tập trung triển khai, như đề xuất ưu đãi thuế, miễn giảm phí giai đoạn đầu cho startup công nghệ, khấu trừ và hoàn thuế nhanh với dự án đổi mới sáng tạo. Gỡ khó về vốn, ông Tâm nhấn mạnh việc vận hành Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, thông qua nghiên cứu hoàn thiện mô hình các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách (quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, quỹ đầu tư phát triển địa phương)… Bên cạnh đó, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các bộ, ngành, địa phương rà soát, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được thuê lại đất đai, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng là tài sản công dôi dư. VIỆT LINH Bộ Tài chính cho biết sẽ phối hợp với các bộ, ngành, địa phương rà soát, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được thuê lại đất đai, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng là tài sản công dôi dư. Bộ Tài chính muốn cho doanh nghiệp thuê đất, tài sản công dôi dư Tính chung 10 tháng đầu năm nay, cả nước có gần 256.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Tổng vốn của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân bổ sung vào nền kinh tế ước đạt gần 5,2 triệu tỷ đồng, tăng 98,2% so với cùng kỳ năm 2024. Đến hết ngày 31/10, cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp hoạt động. Các địa phương có phương án xử lý trụ sở bị dôi dư sau sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh (ảnh minh họa) NGUỒN: BAOCHINHPHU.VN Phát biểu tại lễ khai mạc Triển lãm và Hội nghị quốc tế về công nghệ đường sắt hiện đại và chuỗi cung ứng xây dựng hạ tầng (VRT & CONS 2025), ông Nguyễn Danh Huy - Thứ trưởng Bộ Xây dựng - nhấn mạnh, đây là “thời cơ vàng” để Việt Nam hiện thực hóa chiến lược phát triển giao thông vận tải bền vững, tiến tới một nền kinh tế xanh, hiện đại và kết nối toàn diện. Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng, trong bức tranh phát triển hạ tầng quốc gia, đường sắt giữ vai trò là trục xương sống của hệ thống vận tải, gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam đang theo đuổi. Nếu đường bộ và hàng không đã có những bước tiến mạnh mẽ, thì đường sắt chính là mảnh ghép còn thiếu để hoàn thiện bức tranh giao thông tổng thể. Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã phát triển hệ thống đường bộ cao tốc - mạch máu của giao thông hiện đại - và các sân bay có thể đón máy bay vận tải hàng hóa lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, so với các lĩnh vực này, ngành đường sắt vẫn đang phát triển chậm, chủ yếu do hạn chế về nguồn vốn, nhân lực và công nghệ. Nhận thức rõ tầm quan trọng của đường sắt, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 49KL/TW về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2035, tầm nhìn 2050. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021- 2030, đặt mục tiêu xây dựng một hệ thống đường sắt quốc gia hiện đại cùng các tuyến đường sắt đô thị tại hai trung tâm lớn ở Bắc và Nam. Đây được xem là bước đi chiến lược nhằm giảm ùn tắc đô thị, chuyển đổi xanh trong vận tải và góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng không (Net Zero) vào năm 2050. Lãnh đạo Bộ Xây dựng nói rằng, trong bối cảnh hiện tại, Việt Nam không đi tìm công nghệ đắt nhất, mà tìm công nghệ phù hợp nhất - tức là công nghệ tiên tiến, an toàn, hiệu quả và có khả năng chuyển giao để các doanh nghiệp trong nước từng bước làm chủ. Song song với đó là nhu cầu xây dựng những giải pháp tổng thể về đầu tư, vận hành, bảo trì và quản lý hệ thống, thay vì chỉ mua sắm thiết bị hay xây dựng các tuyến đường riêng lẻ. Một vấn đề khác được Thứ trưởng Bộ Xây dựng nhấn mạnh là nguồn vốn đầu tư. Đường sắt là lĩnh vực đòi hỏi nguồn tài chính rất lớn, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Vì vậy, Chính phủ đang hướng đến xây dựng cơ chế minh bạch, đột phá nhằm thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân và các nhà đầu tư quốc tế. Ông Huy cho rằng, phát triển công nghiệp đường sắt phải gắn với hình thành một hệ sinh thái chuỗi cung ứng nội địa, nơi các doanh nghiệp Việt Nam có thể hợp tác, tiếp nhận công nghệ và từng bước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Theo quy hoạch điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 của Chính phủ, đến năm 2030, ngoài 7 tuyến đường sắt hiện hữu có 11 tuyến đường sắt mới, tổng chiều dài khoảng 3.207km, tăng 2 tuyến so với trước đây. Tổng nhu cầu quỹ đất cho phát triển đường sắt đến năm 2030 là gần 22.000ha; tổng vốn đầu tư khoảng hơn 1,5 triệu tỷ đồng, huy động từ ngân sách, nguồn vốn ngoài ngân sách và các kênh hợp pháp khác... LỘC LIÊN Gần 300 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI Chia sẻ tại tọa đàm “Gia tăng hàm lượng công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp hỗ trợ” ngày 11/11, ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp - Bộ Công Thương, cho biết, theo thống kê của Cục Công nghiệp, cả nước hiện có gần 7.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó tập trung chủ yếu 5 lĩnh vực chính: cơ khí, ô tô, điện - điện tử, dệt may và công nghệ cao. Trong 7.000 doanh nghiệp này có gần 300 doanh nghiệp đã tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI lớn như Samsung, Honda, Toyota, LG… Một số doanh nghiệp trong nước cũng đã làm chủ được các quy trình sản xuất, đặc biệt là quy trình sản xuất những sản phẩm, linh kiện có biên dạng phức tạp hay hàm lượng công nghệ cao như khuôn mẫu hay sản xuất các linh kiện về nhựa, kim loại có yêu cầu kỹ thuật cao. Tuy nhiên, hiện nay tỉ lệ nội địa hóa của nhiều ngành đang còn rất thấp và chỉ dừng lại khoảng 30 - 40% chưa đạt được kỳ vọng của Chính phủ là có thể tới 50 hay 60%. Theo ông Cường, tỉ lệ nội địa hóa thấp, năng lực cạnh tranh về giá không cao xuất phát từ việc trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp vẫn đang còn ở mức trung bình, khả năng ứng dụng nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đang còn rất yếu. Trước thực tế đó, trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã có nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như công nghệ. Bộ cũng phối hợp các tập đoàn FDI nhằm từng bước hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn này. Doanh nghiệp biết tận dụng các cơ hội này đều có cơ hội trở thành nhà cung cấp cấp 1, cấp 2 cho các tập đoàn đa quốc gia. THANH THÚY Vì sao không tìm công nghệ đường sắt đắt nhất? Lãnh đạo Bộ Xây dựng cho biết, trong bối cảnh hiện tại, Việt Nam không đi tìm công nghệ đắt nhất mà tìm công nghệ phù hợp nhất, tức là công nghệ tiên tiến, an toàn, hiệu quả và có khả năng chuyển giao để các doanh nghiệp trong nước từng bước làm chủ. CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==