Báo Tiền Phong số 307

15 n Thứ Hai n Ngày 3/11/2025 THỜI SỰ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Hội đồng Lý luận Trung ương vừa tổ chức Hội thảo khoa học đóng góp ý kiến vào Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC LÀ VĨ ĐẠI, CÓ TÍNH LỊCH SỬ Trình bày tham luận: “40 năm đổi mới và kết quả nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng” tại hội thảo, GS.TS Tạ Ngọc Tấn - Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, Tổ phó Thường trực Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cho biết: Báo cáo về 40 năm đổi mới chia ra 6 nhóm vấn đề tổng kết, gồm: những vấn đề chung, những vấn đề lý luận chính trị; những vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, con người; quốc phòng an ninh; đối ngoại; xây dựng đảng, chính quyền nhà nước. Theo ông Tấn, các nhóm vấn đề này đều do các Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách, huy động lực lượng tham gia của hầu hết các trường đại học, viện nghiên cứu lớn, các tỉnh, thành phố, các cơ quan chuyên môn, với quá trình nghiên cứu, khảo sát, hội thảo nghiêm túc, khoa học. Ông Tấn thông tin, đến cuối năm 2024, quá trình tổng kết cơ bản đã xong; tuy nhiên, để tổng kết 40 năm đổi mới, thì phải đến hết năm 2025. “Cho nên, toàn bộ những gì chúng ta hoạt động trong năm 2025 cho đến trước Đại hội XIV đều thuộc phạm vi của 40 năm đổi mới”, ông Tấn nêu thêm, và nhấn mạnh, một loạt tư liệu, số liệu, vấn đề của năm 2025 đã được cập nhật trong báo cáo. GS.TS Tạ Ngọc Tấn lưu ý, quá trình 40 năm đổi mới, kéo dài từ 1986 đến Đại hội XIV của Đảng diễn ra trong bối cảnh đặc biệt của thế giới và trong nước: sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống chủ nghĩa xã hội; khủng hoảng tài chính thế giới; đại dịch COVID-19… “Việc làm rõ bối cảnh để nhận thức rõ hơn sự sáng tạo, ý chí quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ để chúng ta vượt qua thách thức”, ông Tấn nói. Vấn đề thứ hai ông Tấn đề cập, là những kết quả đạt được của 40 năm đổi mới “mang tính lịch sử”: về kinh tế, xã hội, con người, về vị thế của đất nước trên trường quốc tế, về cải thiện, nâng cao căn bản đời sống của nhân dân. Nhấn mạnh rằng, những kết quả đạt được của 40 năm đổi mới cũng là một cách “để phản bác lại những luận điệu tuyên truyền thù địch với chế độ”, ông Tấn thêm một lần khẳng định: Những thứ chúng ta trải qua, từ trong khó khăn, gian khổ, chiến tranh, cho đến hôm nay, thành tựu đạt được là vĩ đại, có tính lịch sử. HOÀN THIỆN LÝ LUẬN VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI Một vấn đề quan trọng nữa của tổng kết 40 năm đổi mới, theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn, là xây dựng, hình thành và dần dần hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới. Lý luận về đường lối đổi mới này, theo ông Tấn, là kết quả của quá trình đấu tranh tư tưởng về nhận thức: đấu tranh để chúng ta trung thành với Chủ nghĩa Mác Lê-nin; đấu tranh để trung thành với đường lối đi theo con đường xã hội chủ nghĩa… Từ đó, chúng ta nhận ra nội dung của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì; hình dung xã hội chủ nghĩa là gì và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ra sao… “Có thể nói là quá trình ấy mang lại những nhận thức mang tính cách mạng của chúng ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Ví dụ như phát triển kinh tế, từ chỗ kinh tế một thành phần bây giờ phát triển nền kinh tế đa thành phần…”, ông Tấn nêu. Tại hội thảo, PGS.TS Đoàn Minh Huấn - Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh, qua tổng kết thành tựu 40 năm đổi mới, cho phép chúng ta bổ sung thêm một số nội dung liên quan đến phát triển, định dạng mô hình phát triển tổng thể, phân tích đánh giá đến từng lĩnh vực. Ví dụ, trước đây phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm, nay đã bổ sung thêm về nội dung bảo vệ môi trường… Qua tổng kết cho thấy thay đổi về quan hệ tiếp cận, như xác định quốc phòng an ninh cùng với đối ngoại là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Thực tiễn hiện nay cho thấy, lực lượng quân đội, công an thực hiện nhiệm vụ đối ngoại rất nhiều, từ “sử dụng sức mạnh cứng” sang “phát huy sức mạnh mềm”. Ông Huấn nêu, trong báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới đã nêu rõ về những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng sắp xếp đơn vị hành chính, tinh gọn tổ chức bộ máy trong năm 2025. Theo ông Huấn, các ý kiến tại hội thảo đánh giá rất cao các bài học kinh nghiệm trong triển khai nhiệm vụ này. Đầu tiên là về “bài học về ý chí chính trị, quyết tâm chính trị” đối với những vấn đề đã chín, đã rõ. TRƯỜNG PHONG GS.TS Tạ Ngọc Tấn – Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, Tổ phó Thường trực Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh, tổng kết 40 năm đổi mới, là xây dựng, hình thành và dần dần chúng ta đã hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới. GS.TS Tạ Ngọc Tấn: “Những thứ chúng ta trải qua, từ trong khó khăn, gian khổ, chiến tranh, cho đến hôm nay, thành tựu đạt được là vĩ đại, có tính lịch sử” Hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới CHUYỆN HÔM NAY Vấn đề không chỉ nằm ở quy định, mà là ở chỗ không có nhà để mua. Ở TPHCM, mục tiêu đến 2030 cần gần 200.000 căn. Thực tế mới xong hơn 6.600 căn – tức 6,6%. Một con số như muốn “chọc” thẳng vào người lao động: chính sách có, quy định có, nghị định có, nhưng nguồn cung không có. Ở Hà Nội, dự án nhà ở xã hội liên tục xuất hiện, nhưng giá đang tăng phi mã. Từ dưới 20 triệu/m2 lên 25-29 triệu/m2. Căn hộ xã hội nhưng giá rất cao so với thu nhập bình quân. Vậy thì “xã hội” chỗ nào? Một số thành phố đặt mục tiêu lớn, nhưng tiến độ thực tế quá chậm. Người dân đọc chính sách tưởng như “mở cửa”, nhưng đến lúc đi tìm thì không biết phải tìm ở đâu. Nhiều người vẫn hỏi nhau: nhà ở xã hội là để cho ai, và đang ở đâu? Trong khi đó, thị trường đang méo mó một cách khó chấp nhận. Giá nhà xã hội có nơi đã tiến sát giá nhà thương mại bình dân. Mua trực tiếp từ chủ đầu tư thì khó, nộp hồ sơ trực tuyến thì lỗi, tắc, nghẽn… nhưng nếu thông qua môi giới thì lại có ngay những lời mời chào trả thêm hàng trăm triệu đến cả tỷ để có một suất mua ưu tiên. Những người lao động lương thiện xếp hàng mỏi mòn, còn những người có tiền hơn thì sẵn sàng bước vào bằng lối riêng. Nhà ở xã hội đang bị biến thành một mặt hàng đầu cơ thay vì nơi an cư tử tế cho người có nhu cầu thực sự. Đây không chỉ là câu chuyện cung – cầu. Đây là câu chuyện đạo lý của thị trường và trách nhiệm của cơ quan quản lý. Nếu không kiểm soát minh bạch, nếu chỉ phạt nhẹ, nếu vẫn để mặc tình trạng mua bán chênh lệch lan tràn trong nhiều năm qua, thì mọi mục tiêu an sinh đều trở nên vô nghĩa. Nhà ở xã hội không phải là món hàng xa xỉ trong tủ kính. Nó là nền móng ổn định tâm lý xã hội, là sự bảo vệ cho những người làm việc chân thực trong nền kinh tế thị trường. Là nơi những cặp vợ chồng trẻ bắt đầu một gia đình. Là nơi những đứa trẻ được lớn lên mà không phải sống trong cảnh thuê trọ bấp bênh hết năm này qua năm khác. Khi niềm tin vào việc “có thể sở hữu một mái nhà” của những người lao động bị bào mòn, thì đó là sự mất mát lớn hơn cả tiền bạc. Niềm tin không thể mua bằng những lời hứa. Nó chỉ đến khi người dân nhìn thấy thực tế: có nhà, được tiếp cận công bằng, không bị chèn ép, không bị biến thành đối tượng làm giàu cho những nhóm lợi ích bên ngoài chính sách. Giấc mơ an cư của người Việt đã kéo dài quá lâu. Đến lúc phải trả nó về đúng bản chất. Nhà ở xã hội phải là nơi bảo vệ những người yếu thế, chứ không phải món hàng để môi giới, đầu cơ trục lợi. Người trẻ Gen Z hay trung niên – ai cũng muốn một mái nhà. Nhưng trong khi Chính phủ đang chạy tốc độ cao để tháo cơ chế, thì khâu thực thi địa phương, khâu quỹ đất, khâu thủ tục, khâu minh bạch thông tin… vẫn chậm như kẹt xe giờ cao điểm Nếu những điểm nghẽn không được tháo gỡ, xã hội này sẽ phải đối mặt với một thế hệ trẻ – đầy năng lực, đầy nỗ lực – nhưng vẫn không thể có một mái nhà tử tế để an tâm xây dựng tương lai. N.T Nhà ở xã hội - giấc mơ ngoài tầm với TIẾP THEO TRANG 1 Giáo viên sẽ được hưởng hệ số lương đặc thù Giáo viên sẽ được hưởng “hệ số lương đặc thù, trong đó, giáo viên mầm non được hưởng mức 1,25; các chức danh nhà giáo khác được hưởng mức 1,15 so với hệ số lương hiện hưởng... Bộ GD&ĐT vừa công bố Dự thảo Nghị định quy định chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với nhà giáo để lấy ý kiến góp ý rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo dự thảo Nghị định, tất cả nhà giáo đều được hưởng “hệ số lương đặc thù”. Trong đó, giáo viên mầm non được hưởng hệ số lương đặc thù mức 1,25 so với hệ số lương hiện hưởng; các chức danh nhà giáo khác được hưởng hệ số lương đặc thù mức 1,15 so với hệ số lương hiện hưởng. Đối với nhà giáo giảng dạy tại trường, lớp dành cho người khuyết tật, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập, trường phổ thông nội trú vùng biên giới được cộng thêm 0,05 so với mức quy định. Hệ số lương đặc thù được tính với mức lương và không dùng để tính mức phụ cấp. Dự thảo Nghị định quy định, nhà giáo được bổ nhiệm chức danh giáo sư được áp dụng bảng lương chuyên gia cao cấp. Theo đó, bảng lương gồm 3 bậc: 8,8 - 9,4 - 10,0. Theo Bộ GD&ĐT, giáo sư hiện đang là chức danh cao nhất, thể hiện năng lực, uy tín khoa học và vai trò dẫn dắt chuyên môn, khai phá và sáng tạo tri thức mới đối với lĩnh vực. Dù không khẳng định giáo sư là chuyên gia cao cấp nhưng việc áp dụng bảng lương chuyên gia cao cấp đối với giáo sư là phù hợp với vị trí, vai trò của giáo sư đối với sự phát triển đối với lĩnh vực được bổ nhiệm chức danh giáo sư. HÀ LINH

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==