gọi là “trở về”, nhưng trong đó có đủ mùi vị để gọi tên một đời. NGHIỆP CHỮ Sau lần trở về ăn sò huyết bên sông Gianh ấy, ai cũng nghĩ Lê Minh Toản sẽ rời hẳn nghiệp báo, về trồng cây, đọc sách, uống trà, để mặc đời lặng trôi. Nhưng không hiểu sao, sau khi ra Hà Nội, anh lại... không bẻ bút nữa. “Nghiệp chữ” là thứ khó rũ nhất. Nó như mạch ngầm, chảy trong người. Minh Toản vẫn tiếp tục làm việc, mà lại hăng hơn trước. Đồng nghiệp nhiều người cũng mừng - vì tờ báo còn một “của hiếm”: vì chữ đến độ sống chết. Anh vẫn xuất hiện đều trong các buổi giao ban, vẫn khắt khe trong từng câu, từng từ, từng bản thảo. Chữ cũng như người, phải cho nó cơ hội để sáng lên. Khi Minh Toản lên sếp to hơn, nhà báo Xuân Ba mài mực tặng chữ: “Kỳ nghiêm hồ”. Chữ ấy như lưỡi gươm bằng mực, vừa tặng vừa thử, vừa quý vừa răn: “Kỳ nghiêm hồ” - lời cảnh tỉnh: Đáng sợ thay! Sợ điều gì? Chỉ người cho chữ và người được nhận biết rõ. Nhưng tôi nghĩ, thứ đáng sợ nhất là sợ chính mình. Sợ mình quên mất cái tâm ban đầu khi cầm bút. HOÀN NGUYÊN Ngày Lê Minh Toản nhận quyết định nghỉ hưu, anh bảo: – “Lần này tôi về thật, không ở lại Hà Nội nữa!”. Bảy năm sau chuyến về Ba Đồn ăn sò huyết, mới dứt được nợ bút mực chăng? Cuộc đời duyên nợ – nợ đất, nợ nghề, nợ người, nợ chính mình. Khi trả xong, người ta mới có thể mỉm cười để mà hoàn nguyên, trở về. Minh Toản nói hôm chia tay: “Một vòng lục thập hoa giáp, ta lại như trở về thời con trẻ: Lục thập tác tùy nghi – ưa gì làm nấy! “Hưu” trong Hán tự là người dựa vào cây, là về vườn, về với cây cỏ. An nhiên thay, vô tư thay, lành thay. Mới một tuổi rưỡi trong vòng đời mới, tôi hạnh phúc được ưa gì làm nấy!”. Một đời viết, một đời chỉnh từng câu, từng chữ – giờ đây, anh được tự viết cho chính mình. Không còn deadline, không còn điện thoại sau 21 giờ hiện lên dòng chữ “A. Lê Minh Toản” bao lần khiến cho người trợ lý của anh thót tim! n NỬA THIÊN NIÊN KỶ RỪNG CHE, DÂN GIỮ Từ trên cao nhìn xuống, cánh rừng trâm bầu chạy dài hơn 4km men theo bờ biển làng Thanh Bình, xã Quảng Trạch (Quảng Trị) như dải lụa xanh mềm mại, ôm trọn làng quê nhỏ bé giữa mênh mông cát trắng. Loài cây có tên khoa học Combretum quadrangulare Kurz, thân gỗ, cao từ 2 đến 12m, đẻ nhánh sát gốc, thân uốn lượn, khúc khuỷu như minh chứng cho bao mùa giông bão đã đi qua. Nhiều gốc trâm bầu to đến hai người ôm, thân sần sùi, rêu phong phủ mốc. Dưới tán rừng, vô số loài chim, sóc, chồn, thỏ… tìm về làm tổ, tạo nên một “vương quốc sinh thái” hiếm hoi còn sót lại ở vùng cát ven biển miền Trung. “Rừng trâm bầu đã có trước khi lập làng. Tổ tiên chúng tôi khi đến đây khai khẩn, thấy rừng xanh tốt, nước ngọt quanh năm nên chọn làm nơi dựng nhà, lập làng. Từ đó, rừng che chở dân, dân giữ rừng. Quan hệ ấy đã nối dài suốt 5 thế kỷ” - cụ Dương Văn Hài (Tổ trưởng giữ rừng Thanh Bình, người đã gắn bó hơn 40 năm với công việc giữ rừng chia sẻ. Nằm giữa vùng đất khắc nghiệt của gió Lào, cát trắng, điều kỳ lạ là 500 giếng nước quanh làng Thanh Bình chưa bao giờ cạn, dù mùa khô gay gắt đến mấy. Người dân tin rằng, chính rễ trâm bầu đâm sâu vào lòng cát, giữ nước ngọt và ngăn mặn xâm lấn. “Ở các làng bên, giếng thường nhiễm phèn, chua mặn. Nhưng ở Thanh Bình thì nước luôn trong vắt, ngọt lành. Cái ngọt của nước là do rừng cho đó” – cụ Dương Văn Nghị, thành viên tổ bảo vệ rừng, cười hiền nói. Không chỉ giữ nước, rừng còn chắn gió, giữ cát. Mỗi mùa bão, khi những cơn gió từ Biển Đông ầm ầm ập vào, rừng trâm bầu lại như một tấm khiên khổng lồ, bảo vệ nhà cửa, ruộng đồng phía sau. “Nếu không có rừng này, làng Thanh Bình đã bị cát vùi từ lâu” – cụ Đậu Văn Minh thêm vào câu chuyện. Ngay từ buổi đầu lập làng, các vị tiền nhân đã đặt ra hương ước bảo vệ rừng. Ai chặt cây sẽ bị bêu tên giữa đình làng, phạt thóc sung công. Sau năm 1959, khi hợp tác xã được thành lập, tổ giữ rừng ra đời, gồm 11 người, ăn ở trong rừng, tuần tra ngày đêm. Đầu những năm 1980, khi các xã lân cận thiếu củi đốt, hàng chục người kéo vào rừng chặt cây. Để bảo vệ “báu vật”, tổ giữ rừng được cấp hai khẩu súng AK. “Nhiều lần chúng tôi phải bắn chỉ thiên để cảnh cáo. Có khi xô xát, nhưng may không ai bị thương” – cụ Minh kể. Nhờ sự kiên quyết đó, rừng trâm bầu vượt qua giai đoạn khốc liệt nhất. Năm 2011, tổ bảo vệ được Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình tặng Bằng khen vì thành tích giữ rừng. Đến nay, tổ chỉ còn 5 người, toàn những lão nông tuổi 60, 70 – vẫn đều đặn tuần rừng hai buổi sáng chiều. Mỗi người được dân làng góp 8 tạ thóc/năm, quy ra khoảng 4 triệu đồng – chỉ là chút động viên tượng trưng. “Tiền ít nhưng lòng thì nhiều. Giữ rừng là giữ làng, giữ phúc đức” - cụ Hài nói. RỪNG TRONG TÂM THỨC NGƯỜI LÀNG Với người Thanh Bình, rừng trâm bầu không chỉ là nơi trú ngụ của muông thú mà còn là nơi trú ngụ của ký ức và tâm linh. Trong rừng có những ngôi miếu cổ rêu phong, nơi dân làng dâng hương cầu mưa thuận gió hòa. Hằng năm, vào đầu tháng Ba âm lịch, dân làng tổ chức lễ cúng rừng – một nghi thức có từ hàng trăm năm. Ngày ấy, mọi người dọn vệ sinh rừng, dựng bàn thờ, dâng hương tạ ơn tiền nhân và thần rừng. “Không ai dám chặt cây trong rừng trâm bầu. Cây gãy đổ cũng phải xin phép mới được lấy làm củi” - bà Nguyễn Thị Phượng, 78 tuổi chia sẻ. Đến nay, rừng trâm bầu trở thành biểu tượng văn hóa của làng Thanh Bình, hiện diện trong lời ru, câu hò, trong ký ức tuổi thơ của bao người con xa quê. Những trái trâm bầu nhỏ xíu, chát nhẹ đầu lưỡi từng là món quà ngọt ngào của lũ trẻ làng biển. Điều lạ là dù hàng năm cây trâm bầu sai quả, chưa ai thấy cây con mọc lên từ hạt. Cây chỉ sinh trưởng bằng cách đâm chồi từ gốc cổ, như thể sự sống nối dài từ những mạch rễ cổ xưa. “Có người mang hạt về gieo, nhưng không mọc. Có người bứng cây non đi trồng, cũng không sống. Cây chỉ mọc được trên chính mảnh đất này. Có lẽ rừng trâm bầu cũng như người Thanh Bình, chỉ hợp duyên với mảnh đất quê mình” – cụ Minh chiêm nghiệm. Năm 2022, khi dự án đường ven biển đi qua Quảng Trạch được phê duyệt, hướng tuyến ban đầu chạy xuyên qua rừng trâm bầu Thanh Bình. Cả làng đồng loạt phản đối. Những lá đơn, cuộc họp thôn, kiến nghị được gửi lên tỉnh. Kết quả, chính quyền điều chỉnh tuyến đường ra sát bờ biển, bảo toàn nguyên vẹn cánh rừng. “Người dân có quyền tự hào vì đã giữ được báu vật cho con cháu” – Trưởng thôn Thanh Bình Dương Bình Sơn nói. Nhiều năm trở lại đây, chính quyền xã Quảng Xuân và người dân Thanh Bình đưa ra quy định: không chôn cất người mất dưới rừng trâm bầu, nhằm bảo toàn diện tích rừng. Mỗi hộ dân đều có “phần trách nhiệm” trong việc giữ gìn. Trưởng thôn Dương Bình Sơn nói: “Rừng là của làng, là của chung. Người nào xâm hại sẽ bị nhắc tên trên loa, phạt tiền. Mọi người coi việc giữ rừng là giữ nhà”. Rừng trâm bầu không chỉ giữ làng mà còn giữ một nếp sống, một hồn quê. Dưới tán rừng ấy, bao thế hệ người Thanh Bình lớn lên, cưới hỏi, ra khơi, trở về. Rừng chứng kiến những cuộc chiến tranh, những mùa bão, những ngày khốn khó và cả những đổi thay hôm nay. “Tôi làm bảo vệ rừng hơn nửa đời người rồi. Mỗi sáng bước vào rừng, nghe tiếng gió thổi qua lá, tôi thấy lòng mình thanh thản đến lạ. Chừng nào rừng trâm bầu còn xanh, chừng đó làng Thanh Bình còn bình yên” – cụ Minh tâm sự. n 1-2/11/2025 www.tienphong.vn KÝ SỰ 7 HOÀNG NAM BÊN BỜ BIỂN MẶN MÒI NẮNG GIÓ MIỀN TRUNG, CÓ MỘT KHU RỪNG TRÂM BẦU ĐƯỢC NGƯỜI DÂN LÀNG THANH BÌNH NÂNG NIU GÌN GIỮ SUỐT HƠN 500 NĂM NHƯ BÁU VẬT. KHU RỪNG KHÔNG CHỈ LÀ BỨC TƯỜNG XANH NGĂN GIÓ, CHẮN CÁT, GIỮ NGỌT CHO RUỘNG ĐỒNG MÀ CÒN LÀ KÝ ỨC, LINH HỒN, NIỀM TỰ HÀO CỦA BAO THẾ HỆ CƯ DÂN VÙNG BIỂN NÀY. “Bức tường xanh” Cây con trâm bầu chỉ sinh trưởng bằng cách đâm chồi từ gốc mặc dù hằng năm ra rất nhiều quả Nhà báo Xuân Ba trong một lần cho chữ nhà báo Minh Toản “Rừng trâm bầu hơn 150 ha của làng Thanh Bình là rừng tự nhiên hiếm hoi còn giữ nguyên thảm thực vật ban đầu. Giữ rừng ven biển, đặc biệt là những cánh rừng cổ thụ như Thanh Bình, không chỉ là bảo tồn môi trường sinh thái, mà còn là giữ “lá phổi xanh” cho sự sống và văn hóa của làng biển miền Trung”. Một chuyên gia Lâm nghiệp Những thân cây trâm bầu uốn lượn, khúc khuỷu, minh chứng cho bao mùa giông bão đã đi qua GIỮA GIÓ CÁT MIỀN TRUNG
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==