Bệnh nhân là bé Nguyễn Tiến Bảo (15 tháng tuổi, ở Bắc Ninh) bị dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt làm cho lưỡi phì đại, đầy lồi ra phía ngoài miệng đã được các bác sĩ Tạo hình và Sọ mặt (Bệnh viện Nhi T.Ư) điều trị thành công, làm tan khối u bằng phương pháp tiêm thuốc.
Gia đình bệnh nhi Nguyễn Tiến Bảo cho biết, ngay sau sinh trẻ đã có khối u tại vùng miệng. Sau khi được thăm khám và siêu âm, chụp cộng hưởng từ tại Bệnh viện Nhi T.Ư, các bác sĩ kết luận trẻ bị u nang bạch huyết tại sàn miệng lưỡi. Khối u phát triển đẩy lồi lưỡi ra phía trước không chỉ khiến trẻ bú kém, mà còn gây mất thẩm mỹ.
Điều trị u phì đại bằng tiêm thuốc không cần phẫu thuật.
Bác sĩ Đặng Hoàng Thơm, Trưởng khoa Tạo hình và Sọ mặt cho biết, để điều trị u nang bạch huyết, phương pháp điều trị phổ biến hiện này là phẫu thuật cắt bỏ hoặc dùng các thuốc gây xơ hóa mô u. Tuy nhiên với trường hợp bệnh nhân này, phương pháp phẫu thuật rất khó áp dụng do diện tổn thương vào vùng chức năng lưỡi rất lớn, phẫu thuật bóc tách sẽ gây ảnh hưởng các dây thần kinh thanh môn, thanh quản, khí quản…, ảnh hưởng đến vận động của lưỡi cũng như chức năng nói sau này. Sau khi cân nhắc, các bác sĩ đã chọn liệu pháp tiêm thuốc làm xơ hóa khối u. Trẻ được tiêm Bleomycin với liều 1mg/kg 2 lần: lần 1 khi trẻ được 3 tháng, lần 2 khi trẻ được 9 tháng. Sau 6 tháng theo dõi, khối u bạch huyết của cháu đã nhỏ dần lại, lưỡi tụt vào trong miệng, trẻ có thể ăn uống bình thường.
Bác sĩ Thơm cho biết thêm, u nang bạch huyết là một bất thường bẩm sinh của hệ bạch huyết, tuy lành tính nhưng mức độ tiến triển và xâm lấn như u ác tính. Trong nhiều trường hợp, khối u có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân do chèn ép vào các cơ quan xung quanh, đặc biệt là hệ hô hấp. Đa số bệnh nhân đến viện với bệnh cảnh lâm sàng: U to, tăng kích thước nhanh và đột ngột, chèn ép gây khó thở (với u vùng cổ ngực). Đôi khi gặp bệnh nhân đến với triệu chứng của u nang nhiễm trùng, tại chỗ u có biểu hiện u to căng, đau, sốt và đỏ tại vùng da tương ứng phía trên. U thường gặp ở 4 vị trí khác nhau như vùng cổ cằm, vùng nách, vùng ngực và vùng chi thể. Hay gặp nhất tại vùng cổ cằm chiếm 81%. Có 3 giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của nang bạch huyết là sự tắc nghẽn sớm của mạch bạch huyết vùng cổ làm cản trở sự lưu thông giữa các hệ bạch huyết vùng cổ và tĩnh mạch cảnh. Hai là hậu quả của hiện tượng bất thường mô lymphô giai đoạn phôi gây ra sự sai sót trong lưu thông của các kênh bạch huyết. Hoặc do sự phát triển bất thường của các mạch bạch huyết xảy ra vào tuần thai thứ 6 đến tuần thai thứ 9 của thai kỳ tạo nên những nang chứa đầy bạch huyết.
Theo nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Thanh Liêm và thạc sĩ Đặng Hoàng Thơm trên 120 trường hợp mắc u nang bạch huyết tại Bệnh viện Nhi T.Ư giai đoạn 2010 - 2011, bệnh thường xuất hiện ngay sau sinh (chiếm 65%) và tiếp tục phát triển đến khi 2 tuổi. Khối u có thể xuất hiện bất kì nơi nào trong cơ thể nhưng thường thấy nhất là ở cổ (chiếm 81%). Nhiều nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy, việc sử dụng các loại thuốc gây xơ hóa u trong điều trị có nhiều ưu điểm hơn phương pháp phẫu thuật nhờ tránh làm tổn thương các dây thần kinh và mô lân cận, cũng như khả năng tái phát u thấp hơn.
Được biết, từ năm 2010, tại bệnh viện đã áp dụng liệu pháp tiêm Bleomycin để điều trị u nang bạch huyết. Kết quả cho thấy, sau tiêm Bleomycin, tỷ lệ khối u mất hoàn toàn là 44,1%, giảm kích thước là 40,8%.
Theo nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Thanh Liêm và thạc sĩ Đặng Hoàng Thơm trên 120 trường hợp mắc u nang bạch huyết tại Bệnh viện Nhi T.Ư giai đoạn 2010 – 2011, bệnh thường xuất hiện ngay sau sinh (chiếm 65%) và tiếp tục phát triển đến khi 2 tuổi. Khối u có thể xuất hiện bất kì nơi nào trong cơ thể nhưng thường thấy nhất là ở cổ (chiếm 81%).