Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung

Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung
TP - Trong quá trình nghiên cứu những gì có liên quan đến Huế qua sử học, địa lý, văn học cổ, khảo cổ học... nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Đắc Xuân (NĐX) phát hiện ra lăng mộ vua Quang Trung có tên là lăng Đan Dương. 
Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung ảnh 1

Lăng mộ đặt ngay trong cung điện Đan Dương (Cung điện Đan Dương là nơi phụng chúa bảo y tiên hoàng ta - Ngô Thì Nhậm).

Theo một chỉ dẫn khác của Phan Huy Ích, khi vào làm việc với Bùi Đắc Tuyên ở chùa Thiền Lâm ông mới biết Bùi Đắc Tuyên có thói quen ban đêm thức làm việc ban ngày ngủ.

Phan Huy Ích không quen ngủ ngày nên ngồi trong nhà trọ giải buồn, bày rượu uống. Phan Huy Ích cho biết, những người khách thân giữ lăng thường đến uống rượu với ông. Như vậy lăng Đan Dương phải ở gần chùa Thiền Lâm - nơi ở và nơi làm việc của vị Thái sư triều Tây Sơn.

Vua Quang Trung mất đột ngột, triều đình lúc đó đang phải đối phó với tình hình chính trị phức tạp: thù trong, giặc ngoài, nội bộ anh em nhà Tây Sơn đang mất đoàn kết.

Xây lăng, đắp mộ cho ông là một việc lớn, nhưng phải giải quyết trong điều kiện hoàn toàn bí mật, nếu không giữ được bí mật thì khó tránh được những đột biến khôn lường.

Trong tình cảnh ấy mộ vua Quang Trung phải được đặt ngay trong cung điện Đan Dương. Bài Cảm hoài của Ngô Thì Nhậm cho biết, vua Quang Trung có một cung điện tên là Đan Dương, cung điện này ở vùng núi, sau đó được sử dụng làm lăng cho vua Quang Trung (Sơn Lăng).

Vì thế cung điện Đan Dương rất có thể là hành cung của vua Quang Trung? Trong nhiều bài thơ khác Ngô Thì Nhậm cũng nhắc đến Đan Dương Lăng, Đan Lăng.

Phan Huy Ích cũng đã nhiều lần đề cập đến Đan Lăng trong các sáng tác của mình.

Năm 1799, khi Thái Vũ hoàng hậu Lê Ngọc Hân qua đời, Phan Huy Ích viết điếu văn cho vua Quang Toản, tác giả cho biết triều Quang Toản đã thỏa mãn nguyện vọng muốn được mãi mãi ở cạnh Quang Trung của bà Ngọc Hân, đã cho táng bà bên cạnh lăng vua Quang Trung: “Bên Đan Lăng quanh quất mạch liên châu”.v.v...

Qua những chỉ dẫn của hai cận thần triều Tây Sơn có thể khẳng định lăng mộ của vua Quang Trung  nằm trên vùng núi phía nam kinh đô Phú Xuân lúc bấy giờ.

Căn cứ vào đặt tên địa danh của vua chúa xưa và địa hình xứ Huế, gần 20 năm qua NĐX đã cất công đi tìm toạ độ của Cung điện Đan Dương

Phủ Dương Xuân và cung điện Đan Dương trong sử sách

Đan Dương lăng nằm gần chùa Thiền Lâm, có nghĩa là cũng nằm gần Phủ Dương Xuân. Phủ Dương Xuân được xây dựng từ năm 1680.

Lý do xây dựng Phủ Dương Xuân ở vùng gò đồi này được các sử gia giải thích là để các Chúa ở trong mùa lũ lụt và trong mùa đông - cho nên còn có tên gọi là Cung điện Mùa Đông. 

Trong Phủ biên tạp lục (PBTL)  Lê Quý Đôn cho biết: “Ở về mạn thượng lưu bờ nam ngạn, có Phủ Dương Xuân, Phủ Cam. Đi lên phía trên nữa có phủ Tập Tượng...

Phan Huy Ích vào Thuận Hóa làm quan dưới triều Tây Sơn, ông ở Huế khá lâu và ghi chép được nhiều tài liệu về Huế. Những tài liệu đó  được con ông là Phan Huy Chú tham khảo trong lúc viết cuốn Dư Địa Chí - trong bộ bách khoa Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí

Dư Địa Chí có đoạn viết về những cung điện ở bờ nam sông Hương: “Nam ngạn con sông và trên mạng thượng lưu, lại có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ; ấy là những tòa nhà nguy nga, mái đao rực rỡ, có hành lang bao quanh, tường thành vây bọc; cửa ngõ mở thông ra tứ phía, được chạm trổ và trang sức rất công phu...

Sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (ĐNTLTB) soạn từ năm Minh Mạng thứ hai (1821) đến năm Thiệu Trị thứ tư (1844), các sử thần triều Nguyễn có đọan viết tương tự như của Phan Huy Chú, nhưng không thấy nói gì đến Phủ Dương Xuân.

Điều đó chứng tỏ rằng đến thời Minh Mạng - thời viết ĐNTLTB - Phủ Dương Xuân không còn nữa (?) Theo NĐX,  ĐNTLTB không nhắc đến Phủ Dương Xuân vì hai lẽ:

1. Phủ Dương Xuân bị xoá vết tích từ đầu triều Gia Long nên không còn nữa. 

2. Không nhắc đến Phủ Dương Xuân để cho thống nhất với chủ trương Phủ Dương Xuân bị mất tích từ sau khi binh loạn như ĐNNTC đã viết.

Phủ Dương Xuân qua sử sách Đông Tây là như vậy. Những nét chính của Phủ Dương Xuân mà NĐX tìm kiếm trong thực tế gồm:

1. Có những biểu hiện của một vùng kiến trúc cổ đặc biệt đã bị triệt hạ chôn sâu dưới đất nằm giữa chùa Từ Đàm (Ấn Tôn) và chùa Tuệ Lâm đúng vào vị trí “phía thượng lưu và hơi xa bờ sông Hương một chút”.

2. Khu vực nằm trên gò Bình An (một phần cắt của gò Dương Xuân cũ) đúng vào vị trí bắc đàn Nam Giao.

3. Địa thế chỗ cao (đỉnh gò) còn nhiếu dấu vết móng tường thành, chỗ thấp có hồ bán nguyệt, suối Tiên.

4. Khu vực có biểu hiện nhiều kiến trúc khác nhau như giếng nước, móng tường thành, đá táng cột biểu hiện các cung thất bị triệt hạ, giải hạ rải rác nhiều nơi. Khu vực đó đã bị cấm; cho mãi tới đầu kỷ sau XX  quan lại và dân chúng mới đến sinh sống.  

Ngoài những nét chính này, qua khảo sát của NĐX còn cho thấy các yếu tố cát địa khẳng định cơ sở chính của Phủ có hướng tây bắc - đông nam, phù hợp với tập quán xây dựng cung thất của vua chúa phương Đông. Vì thế có thể yên tâm về địa điểm của Phủ Dương Xuân.

Đi tìm Phủ Dương Xuân trên địa bàn ấp Bình An - TP Huế

Khu vực chùa Thiền Lâm và chùa Vạn Phước, thuộc ấp Bình An, có rất nhiều hiện vật cổ.

Khi đào đất làm vườn hay dựng nhà, người dân ở đây bắt gặp ở dưới đất rất nhiều gạch vồ, đá lát khổ lớn; có nhiều viên đá lót đường thu nhặt từ những công trình kiến trúc cũ đã bị chôn vùi xuống đất từ xưa.

Con đường bọc sau lưng chùa Vạn Phước đi ra phía tây bắc có nhiều đống giải hạ được vun thành bờ rào phía sau chùa Vạn Phước và phía trước chùa Tịnh Độ.

Nhiều bia mộ của các vị Tổ sư chùa Thiền Lâm bị mài đục, có tháp về sau được sửa chữa viết lại. Có rất nhiều lăng xây bằng đá tận dụng ở khu vực cồn Bông Sứ- ngay trước chùa Vạn Phước.

Ở Huế xưa bông sứ chỉ được trồng ở các cung điện, lăng mộ, hoặc nơi thờ tự lớn. Cái cồn này có nhiều gốc Bông sứ cổ chứng tỏ ở đây từng có các cung điện, hoặc là lăng mộ, hay một nơi thờ cúng quan trọng nào đó?

Trước năm 1990, ở Cồn Bông Sứ có một ngôi lăng với một tấm bia lớn dựng trên lưng một con rùa bằng đá trắng. Tấm bia đá granít đã bị “mài” nhẵn mất hết chữ.

Hiện tấm bia lớn + rùa đá còn dựng ở  sân sau chùa Thiền Lâm. Ở phía tây nam tấm bia + rùa đá chừng ba bốn chục mét có một ngôi lăng mộ rộng 3m, dài 4m, tấm bia lăng (1,1m x 1,1m) ghép bằng ba phiến đá mỏng (Xem ảnh A.051).

Phía trước lăng có hai cái trụ đá hình chóp thấp, một cái bàn đá nhỏ giống như một cái ghế đá vuông chôn sâu dưới đất. Phía sau lăng có hai khối đá khác, một khối 55 x 35cm, chiều cao có hai cấp, cấp thấp khoảng 30cm, cấp cao khoảng 34 cm; một khối đá táng cột 45 x 45cm, dày 25cm.

Viên đá táng cột này rất đặc biệt, phần khoét giữa mặt đá để kê cột có một hình tròn bị cắt một khúc và đục rộng ra. Chỗ khoét sâu ấy chứng tỏ mặt cắt ngang cây cột kê vào viên đá ấy có một hình tròn và một hình tam giác ghép vào nhau. 

Ở hai đầu góc nhọn của tam giác có hai đường hoa văn cuốn lên. Cỡ viên đá táng 45 x 45cm, lỗ kê chân cột lớn và có hình khối đặc biệt, chứng tỏ nó có xuất xứ từ một cung điện lớn.

Đây là lăng của thân mẫu Thượng thư bộ binh Phạm Liệu. Nhờ quyền thế  ông Phạm Liệu mới dám góp nhặt “phế liệu đá” tận dụng trong khu vực nầy để xây dựng lăng cho thân mẫu mình.

Những viên đá đó của cung điện nào? Vì sao nó lại tập trung vào khu vực này? Có liên quan gì đến Phủ Dương Xuân “đã bị mất tích” và lăng Đan Dương “đã bị quật phá” không ?

Khu vực Cung điện Đan Dương đã rõ, câu hỏi: Đan Lăng ở đâu  có thể xác định nằm trong khu vực Phủ Dương Xuân / Cung điện Đan Dương ấy. Nhưng địa điểm huyệt mộ táng vua Quang Trung đã bị quật phá cụ thể ở vào chỗ nào trong  khu vực này?

Giải pháp cơ bản để trả lời câu hỏi này NĐX đã đưa ra cách đây 15 năm nhưng các cơ quan khảo cổ học của nhà nước chưa vào cuộc nên ông chỉ dám đặt tên cho công trình nghiên cứu này là “Góp một giải pháp vào việc tìm dấu tích lăng mộ vua Quang Trung”.

Câu trả lời cuối cùng còn đợi kết quả khai quật khảo cổ học.

MỚI - NÓNG
Chu Thanh Huyền đeo vàng trĩu cổ
Chu Thanh Huyền đeo vàng trĩu cổ
TPO - Trong ngày trọng đại, Chu Thanh Huyền và Quang Hải được gia đình nhà gái và nhà trai trao tặng nhiều quà cưới. Theo ghi nhận, cặp đôi nhận được những món quà giá trị từ gia đình 2 bên gồm nhiều kiềng vàng và nhẫn.