Đế chế La Mã – Từ thành bang nô lệ trở thành đế chế không có điểm kết thúc – Kỳ II

Đế chế La Mã đã tham gia tạo dựng nên một nền văn minh tiến bộ bằng sự hiểu biết, ham học hỏi mà thế giới hiện đại đang kế thừa và phát triển.
Đế chế La Mã – Từ thành bang nô lệ trở thành đế chế không có điểm kết thúc – Kỳ II ảnh 1
 
Đế chế La Mã – Từ thành bang nô lệ trở thành đế chế không có điểm kết thúc – Kỳ II ảnh 2
 
Đế chế La Mã – Từ thành bang nô lệ trở thành đế chế không có điểm kết thúc – Kỳ II ảnh 3
 

Vương quốc La Mã được bao bọc ba mặt là biển, phía bắc là dãy Alps. Khi người La Mã thống trị vùng đất này, họ muốn mở mang bờ cõi, xây dựng một đế chế không biên giới về lãnh thổ. Dựa vào sức mạnh quân sự, Roma chinh phục các vùng đất quanh khu vực Địa Trung Hải. 

Cỗ máy quân sự của La Mã đi tới đâu, chiến tranh và kiểm soát đến đó. Đội quân này rất kiên trì và tham vọng thống trị đến mức sẵn sàng chiến đấu bất kể đổi thủ mạnh như thế nào, thời gian chiến tranh kéo dài bao lâu. Điển hình nhất là trận La Mã – Ba Tư kéo dài 683 năm đã trở thành cuộc xung đột kéo dài nhất trong lịch sử nhân loại.

Trải qua thời kỳ quân chủ (khoảng những năm 753 TCN đến 509 TCN), đế chế La Mã bước vào nền Cộng hòa La Mã. Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý như người Samnite và Sabine, người Etrusca.

Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc Macedonia và đế chế Seleucid vào thế kỉ thứ 2 TCN, người La Mã trở thành những người chủ của vùng Địa Trung Hải.

Đế chế La Mã – Từ thành bang nô lệ trở thành đế chế không có điểm kết thúc – Kỳ II ảnh 4 Thế kỷ thứ 2 SCN, hầu như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải, Tây Âu, Tiểu Á, Bắc Phi và nhiều vùng của Bắc và Đông Âu bị La Mã thống trị.

Vào thời kỳ cực thịnh, đế chế La Mã cai quản một vùng đất rộng lớn khoảng 5 triệu km2, là đế chế lớn thứ 24 trong lịch sử với khoảng 50-90 triệu thần dân, chiếm khoảng 12-20% dân số thế giới lúc bấy giờ. Riêng thủ phủ Roma đã khoảng 1 triệu dân vào thời hoàng kim và là thành phố đông đúc nhất thời bấy giờ.

Lịch sử đã ghi nhận Maximinus Tharax trị vì đất nước từ năm 235 -258 SCN, ông nắm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội đầu tiên của đế chế La Mã. Vào thời điểm này, đế chế La Mã đã phát triển rộng lớn đến mức không còn khả thi để cai trị tất cả các tỉnh từ vị trí trung tâm. Tuy nhiên vào giai đoạn khủng hoảng từ năm 235-284 SCN đã có tới 14 vị hoàng đế - chiến binh thay nhau nắm quyền nhưng chỉ trong một thời gian rất ngắn.

Đến thời đại Septimius Severus, quân đội La Mã vô cùng hùng mạnh với 500.000 binh lính, 182.000 lính bộ binh, 250.000 quân trợ chiến, 10.000 cận vệ hoàng đế, 40.000 hải quân và 11.000 quân Madi.

Chiến binh La Mã xuất phát điểm là những người du cư thuần nông nhưng lại có thể trở thành bậc thầy trong tác chiến và thực thi chiến lược. Từ một thị trấn nhỏ như ở Italy, người La Mã đã trở thành bá chủ Địa Trung Hải và các khu vực Châu Á, Tiểu Á, Bắc Phi.

Đội quân La Mã còn được gọi là "Exercitus" nghĩa là "rèn luyện" và họ tôn thờ nữ thần kỷ luật Disciplina. Điều này nhấn mạnh rằng người La Mã cực kỳ chú trọng tới công tác huấn luyện và tính kỷ luật một cách nghiêm ngặt. Binh lính vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng.

Đội hình La Mã được mô tả như là một "cỗ máy quân sự" và được coi là những người lính chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới. Lính La Mã rèn luyện ở mọi nơi, ngay cả trên chiến trường hay đường hành quân. Mỗi chiến binh đều hiểu, họ phải đạt đến ngưỡng hoàn hảo, có thể sử dụng kết hợp cùng lúc các loại vũ khí như kiếm, giáo và khiên. Có khả năng chiến đấu độc lập và phối hợp binh đoàn đầy hiệu quả.

Đế chế La Mã – Từ thành bang nô lệ trở thành đế chế không có điểm kết thúc – Kỳ II ảnh 5  Để hiểu một cách sâu sắc về tài trí quân sự và trang bị kiến thức nền tảng về binh pháp, khả năng thao lược của một dân tộc, một quốc gia, nhà sáng lập - Chủ Tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ đã cẩn trọng tuyển chọn cuốn sách “Thập Nhị Binh Thư” – một trong hơn 100 đầu sách quý của Tủ sách Nền tảng Đổi Đời với 12 lĩnh vực căn cốt nhất của toàn nhân loại.

Trở nên hoàn hảo cũng là lựa chọn duy nhất, bởi đội hình tác chiến của quân đoàn La Mã vô cùng phức tạp. Các đơn vị chiến thuật có từ 60 - 120 người. Mỗi chiến binh mang theo số quân trang lớn nhất di chuyển trong một đội hình khít thường xuyên. Khi tác chiến họ sắp xếp đội hình, hành quân và phối hợp chiến đấu vô cùng chuẩn xác.

Đội hình vai kề vai, sát cánh cùng nhau đã tạo ra một khối sức mạnh tấn công sâu vào hàng ngũ quân địch. Đôi khi, mỗi chiến binh sẽ chiến đấu hoàn toàn đơn độc, xoay chuyển và đối phó với kẻ thù từ mọi hướng. Quân đoàn La Mã có thể đương đầu với nhiều loại quân khác nhau một cách hiệu quả từ kỵ binh, cung thủ, máy móc cho tới chiến tranh du kích. Họ gần như bất khả chiến bại, kỷ luật là yếu tố làm nên sức mạnh của đội quân La Mã cổ đại, một trong những đế chế rộng lớn nhất lịch sử nhân loại.

Họ có thể chịu những thất bại nặng nề, ngay cả khi đứng trước nguy cơ bị hủy diệt hoàn toàn nhưng họ chưa bao giờ khuất phục. Họ chấp nhận thua trong từng trận đánh nhưng quyết giành chiến thắng trong cả cuộc chiến tranh. Trận chiến Watling đã chứng minh cho điều đó khi 10.000 người La Mã đánh bại hơn 100.000 quân khởi nghĩa Briton.

Tinh thần kỷ luật thép và khát vọng xây dựng đế chế cường thịnh trở thành lẽ sống và sức mạnh để những nông dân thành Roma chinh phục và thống trị hơn 300 quốc gia khác. Trong thời đại thịnh trị, quân đoàn La Mã là những chiến binh không đối thủ, một quân đoàn huyền thoại mà cho đến nay, vẫn được các nhà quân sự cho là tổ chức hình mẫu.

Tuy nhiên, những cuộc di dân mà bao gồm cả các cuộc xâm lăng lớn của những bộ tộc người German và người Huns dưới trướng Attila đã dẫn đến sự suy tàn của đế quốc Tây La Mã. Cùng với sự thất thủ của Ravenna dưới bàn tay của người Heruli và sự kiện Odoacer lật đổ Romulus Augustulus vào năm 476 SCN, đế quốc Tây La Mã cuối cùng đã sụp đổ và nó đã bị hoàng đế Zeno bãi bỏ chính thức vào năm 480 SCN. 

Đế quốc Đông La Mã, được biết đến sau này với tên gọi là đế quốc Byzantine, đã sụp đổ sau khi Constantinople thất thủ bởi bàn tay của người Ottoman dưới triều đại của Mehmed II vào năm 1453.

Đế chế La Mã – Từ thành bang nô lệ trở thành đế chế không có điểm kết thúc – Kỳ II ảnh 6 Sự hưng thịnh và suy vong của đế chế La Mã đã được dựng thành phim "The fall of the roman empire" và để hiểu biết sâu sắc hơn về đế chế La Mã còn có những bộ phim như: Alexander Đại đế, Spartacus – là những bộ phim thuộc Tủ phim Nền Tảng đổi đời do Nhà sáng lập, Chủ Tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ tâm huyết, cẩn trọng tuyển chọn

Cuối cùng đế chế La Mã cũng không thể duy trì được sự tồn tại của mình. Sự sụp đổ La Mã đã chứng minh cho quá trình suy tàn của các đế chế ở phương Tây, khi mà các đế quốc không đủ tiềm lực để thực thi sự cai trị của mình lên lãnh thổ rộng lớn, được chia thành nhiều chính thể kế vị, khiến tình hình rối ren, bất ổn… 

Đế chế này, sụp đổ cũng bởi xa rời những giá trị cốt lõi – khi mà khát vọng lớn xuất phát từ tham vọng mù quáng, sử dụng quá nhiều lực lượng sản xuất vào các cuộc bành trướng lãnh thổ gây mất cân bằng xã hội, sai lầm trong công cuộc chính trị hóa quân sự cùng với những cuộc thanh trừ nội bộ kéo dài trong suốt quá trình hình thành và phát triển. 

Ở đế chế này, tuy có sự học hỏi nhưng chưa đầy đủ, các giá trị truyền thống cần được duy trì ngày càng mai một dẫn đến những suy đồi về đạo đức. Ở đế chế La Mã có tinh thần đoàn kết song vẫn còn tồn tại lòng vị kỷ của cá nhân, có sự phân biệt giai tầng gây nên mất cân bằng, bất bình đẳng, sử dụng bạo lực để cai trị, chính quyền tham nhũng ở khắp mọi nơi đã đẩy một đế chế hùng mạnh như La Mã đến bờ vực của sự lụi tàn. 

Dẫu vậy, những ánh hào quang rực rỡ nhất mà đế chế La Mã đã tạo dựng cho văn minh châu Âu và nhân loại thế giới vẫn đáng được học hỏi.

Đế chế La Mã – Từ thành bang nô lệ trở thành đế chế không có điểm kết thúc – Kỳ II ảnh 7  

(Đón đọc kỳ sau: Đế chế Hồi Giáo - Từ bộ lạc du mục trở thành đế chế hùng mạnh.)

MỚI - NÓNG