Chuyện 2 ngôi làng nghìn năm hóa giải lời thề...tình yêu

Đó là câu chuyện của hai ngôi làng Dục Tú và Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Cũng chỉ vì mâu thuẫn đất đai từ ngàn đời trước mà hai thôn phải đặt bia đá và gắn lời thề độc “trai gái hai làng không bao giờ được lấy nhau, có lấy nhau cũng không bao giờ hạnh phúc”.

Cổng làng Dục Tú, đúng một nghìn năm mới có người con gái của làng Cổ Loa bước qua.
Cổng làng Dục Tú, đúng một nghìn năm mới có người con gái của làng Cổ Loa bước qua.

Cuộc tranh chấp “nghìn năm”

Để tìm hiểu câu chuyện kì thú này, chúng tôi tìm về thôn Dục Tú và thật may mắn đã gặp được cụ Nguyễn Thị Thúy An - người giữ chùa của làng. Nhờ cụ kể lại câu chuyện, chúng tôi mới hiểu được tường tận nguồn gốc lời nguyền “ngàn năm mới có người giải” ở cái nơi “phép vua thua lệ làng” này.

Câu chuyện được truyền từ đời này sang đời khác, bắt nguồn từ thời vua Ngô Quyền giữ nước. Ông có một bà thứ phi tên Đào Thị Sa. Đào Thị Sa vốn là con gái nuôi nhà họ Đỗ trong thôn Dục Tú, từ nhỏ đã có nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, trong người bà lúc nào cũng có mùi hương trầm rất thơm.

Một hôm, khi bà đang cắt cỏ ven đường cạnh cây đa đầu làng thì vua Ngô Quyền kinh lý đi qua. Đám quân lính của vua đi trước dẹp đường thấy Đào Thị Sa không tránh đường vua đi liền quát tháo inh ỏi. Bà không tránh mà chỉ nhìn quân lính rồi trả lời: “Người nào có việc người đó, vua có việc của vua, tôi có việc của tôi cớ sao lại bắt tôi nghỉ việc”. Nói rồi, bà lại điềm tĩnh cắt cỏ như không có chuyện gì và hát câu: “Tay cầm bán nguyệt xênh xang, trăm ngàn ngọn cỏ đầu hàng tay ta”.

Thấy bà ngang bướng, dám chống lệnh quân, cản đường vua, quân lính liền bắt lại rồi bẩm báo với bề trên. Ngô Quyền thấy sự lạ, liền bảo đám quân mang người bị bắt tới cho vua xem mặt. Thấy dung mạo là một thôn nữ tài sắc, người toát mùi hương thơm rất lạ, khẩu khí đối đáp lại rất hiên ngang, phí khách, vua đem lòng yêu mến bèn đón bà về cung và lấy làm thứ phi. Từ một cô thôn nữ nghèo, Đào Thị Sa trở thành thứ phi chốn hoàng cung, nhưng không vì thế mà bà trở nên kiêu ngạo. Ngược lại, bà đã giúp Ngô Quyền rất nhiều trong việc trị nước, bình thiên hạ, lập được nhiều công trạng lớn. Chỉ có một điều đấy là bà không sinh hạ được cho vua một người con nào.

Sau cùng, bà chán nản nên xin vua cho lui về chốn quê nghèo. Ngô Quyền vừa thương vừa tiếc, cố gắng giữ lại nhưng bất thành, bèn ban cho bà nhiều vàng bạc châu báu và cho phép về lại quê hương. Tuy nhiên, bà không lấy thứ gì, chỉ xin vua mảnh đất cho dân làng Dục Tú quê mình cày cấy mà thôi. Vua cho bà chọn ở đâu sẽ ban đất đai ở đó. Bà xin vua cho thả quả bầu xuống sông Hoàng Giang chảy qua địa phận của làng, nếu quả bầu trôi đến đâu thì cắt đất cho tới đó.

Quả bầu trôi đến địa phận làng Cổ Loa thì mắc lại, vua liền ban chiếu, cắt đất cho bà. Sau đó, bà cùng dân làng Dục Tú khai khẩn, trồng trọt đất hoang, lập nên cái chợ có tên là Chợ Sa (vẫn tồn tại đến ngày nay) ở mảnh đất vua ban, tạo lên ngôi làng trù phú.

Ngặt một nỗi, mảnh đất vua ban cho thứ phi Đào Thị Sa tuy là đất hoang, nhưng lại thuộc về thôn Cổ Loa. Dân làng Cổ Loa không bằng lòng, cho rằng thôn Dục Tú đã lấn chiếm đất đai Cổ Loa, bèn làm đơn khiếu kiện lên quan. Những vụ kiện cáo của các cao niên thôn Cổ Loa cứ thế kéo dài, nhưng bao giờ thôn Dục Tú cũng dành phần thắng.

Cụ An cho biết, khi cụ còn nhỏ, chính ông nội và cha thân sinh ra cụ là những người trực tiếp lên quan để hầu kiện vì mâu thuẫn tranh giành đất của hai thôn. Nhưng kết cục, chưa bao giờ thôn Cổ Loa dành được phần thắng.

Mâu thuẫn đất đai dẫn đến những cuộc kiện tụng không có hồi kết. Dục Tú quyết giữ bằng được mảnh đất vua ban, còn Cổ Loa một mực cho rằng mình bị chiếm đất. Từ thời mới bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, hai thôn luôn trong tình trạng như nước với lửa, thù ghét và kình địch nhau, không có bất cứ quan hệ mua bán, tiếp xúc nào. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi cả hai thôn mang nhau ra quan kiện tụng. Không giải quyết được tranh chấp, dân làng Dục Tú lập ngay một bia đá khắc đôi câu thề độc: “Thề không bao giờ trai gái Dục Tú lấy Cổ Loa, có lấy thì cũng sẽ không được hạnh phúc”. Cũng vì mâu thuẫn ấy, trai đinh hai làng thường xuyên xảy ra xô xát, có khi còn có án mạng. Nhưng điều đặc biệt, bao giờ người làng Cổ Loa cũng nhận phần thiệt về mình. Dẫn đến đã thù ghét, lại càng thù ghét thêm.

Chuyện 2 ngôi làng nghìn năm hóa giải lời thề...tình yêu ảnh 2

Đình chùa làng Dục Tú - nơi từng đặt tấm bia thề độc đã được phá bỏ.

Hóa giải lời “sấm truyền” đáng sợ trong tình yêu

Khoảng thời gian những năm diễn ra mâu thuẫn, tranh chấp đất đai giữa hai thôn là những năm người ta không bao giờ thấy trai gái hai làng dám ngó ngàng, thậm chí là bén mảng đến nhau. Phần vì ác cảm từ thời cha ông xưa để lại, phần vì lo sợ lời nguyền sấm truyền từ đời này sang đời khác sẽ thành sự thật.

Tính ra cũng khoảng một nghìn năm đã trôi qua mà lời khắc trên bia đá vẫn còn khiến trai gái hai làng kinh sợ. Theo cụ An, nhiều đôi trai gái hai làng có tình cảm với nhau, nhưng do lời thề khắc trên bia đá nên không ai dám phá bỏ và chẳng đôi nào đủ tự tin đến với nhau. Vậy nên, dù yêu nhau sâu đậm, họ vẫn phải chia tay. Nhiều chuyện tình bi thương, sâu sắc còn được dân làng truyền miệng cho đến ngày nay.

Mặc dù mâu thuẫn đã khắc sâu ở nơi “phép vua thua lệ làng” này, nhưng nhiều năm trước, được sự vận động của chính quyền địa phương, hai thôn cuối cùng đã giảng hòa một cách tốt đẹp. Thôn Dục Tú đồng ý cắt đất, chia đôi với Cổ Loa, người dân hai thôn cùng nhau sinh sống, làm ăn trên chính mảnh đất ấy, chấm dứt những cuộc kiện tụng tranh chấp đất đai kéo dài nghìn năm.

Tấm bia đá ghi lời thề độc trước cổng làng Dục Tú đã được phá bỏ, nhưng “tấm bia đá” trong tâm trí người dân hai thôn thì vẫn vững vàng. Trong một thời gian dài, trai gái hai thôn vẫn chẳng dám hẹn hò, yêu đương. Nhưng cuối cùng, lời nguyền một nghìn năm cũng đã được phá giải. Tình yêu đến với hai làng khi một đôi uyên ương đã kết duyên chồng vợ.

Đôi trai gái ấy không ai khác chính là em trai và em dâu cụ An. Tình yêu của họ lớn đến mức họ bất chấp lời nguyền không biết đã được phá bỏ hay chưa, bất chấp mọi lời khuyên ngăn của người dân trong làng về một sự đe dọa mơ hồ. Họ yêu nhau, đến với nhau và quyết tâm thành vợ, thành chồng.

Chính đôi trai gái ấy đã phá bỏ lời thề độc, rửa sạch nỗi lo sợ trong lòng người dân hai thôn trong suốt một nghìn năm qua. Đến nay, họ đã thành ông thành bà, sống một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc. Cụ An cho biết, tin theo tình yêu, nhất là sau khi thấy em trai cụ lấy gái Cổ Loa và sống hạnh phúc, nhiều đôi nam nữ khác của hai thôn Cổ Loa - Dục Tú cũng đã thành gia lập thất, sống bên nhau vui vẻ, hòa hợp.

Theo Theo laodong.com.vn
MỚI - NÓNG