Cầu quán

Minh họa: Ðỗ Đức.
Minh họa: Ðỗ Đức.
TP - Chắc hẳn lớp người già nhiều người còn nhớ những cánh đồng làng quê Bắc bộ cách đây trên nửa thế kỉ có những ngôi nhà nhỏ đứng chơ vơ giữa đồng không mông quạnh? Ðó là cầu quán, một điểm nhấn trên cánh đồng làng xưa.

Những ngày hè, đồng xa trong ngút ngàn nắng lóa, có một cây đa, một cây gạo trồi lên, dưới đó có một mái quán chừng vài ba chục mét vuông. Quán thấp nhỏ, lợp ngói vẩy, tường chỉ ở hai đầu hồi, còn để trống hai bên. Cầu quán che mưa chắn nắng, là chỗ nghỉ chân buổi trưa cho người làm đồng xa hoặc bất ngờ gặp bão tố hay mưa dầm gió bấc bất ngờ tràn về. Thời ấy làm gì có dự báo thời tiết cập nhật liên tục mà đề phòng!

Quán nào cũng có người dựng lên, nhưng chỉ người làng biết.

Người làm quán là những nhà hiếm hoi cầu tự. Xin đất làng làm quán là làm điều thiện cho làng nước, mong được đèn trời soi xét cho họ đứa con để lấy người nối dõi. Lời cầu xin ấy có khi cũng thấu trời xanh. Những đứa con cầu tự ra đời. Lại lần nữa người ta làm lễ bán khoán lên chùa làm con cửa Phật để tránh bị ma bắt.

Cây đa giếng nước sân đình từng đi vào thi ca và ca dao cả một thời cùng với con cò con vạc con nông, nhưng cầu quán thì ít được đề cập. Dầu vậy, ai cũng biết và nhớ những cánh đồng với điểm nhấn đó. Nhìn cầu quán là biết đến người xây ra nó. Có cái lâu đến dăm bảy chục năm thì không ai còn biết chủ nhân, nhưng nó vẫn đứng đấy với tường rêu mốc cùng tấm lòng thành che nắng che mưa khi có người cần đến nó.

Năm tháng đổi thay, con người đông lên, đồng ruộng được cải tạo, nhà cửa nới ra thêm trên đất nông nghiệp, ruộng dần hẹp đi. Rồi những năm hợp tác xã nông nghiệp ra đời, người ta làm bờ vùng bờ thửa. Cầu quán đổ nát chẳng còn ai tu sửa, rồi nhiều khu đồng mất dần cầu quán và sau đó mất hết dấu vết. Vì người ta không cần đến nữa.

Bây giờ trên các cánh đồng đồng bằng miền Bắc hầu như chẳng ai còn thấy cầu quán. Các thế hệ 6X, 7X trở lại đây thì chắc chắn không biết cầu quán là gì. Cánh đồng hôm nay vẫn là cánh đồng hôm xưa, nhưng canh tác trên đó là lớp người hoàn toàn chẳng giống xưa. Họ nhiều kiến thức hơn, công cụ lao động tốt hơn. Xưa tính toán lợi ích trên miếng đất người ta chỉ biết trồng lúa, nhưng nay ngoài lúa còn làm màu, người làm nông còn biết đủ loại phân bón, rồi thuốc trừ sâu, rồi giống mới lai tạo năng suất gấp mấy lần xưa. Lại còn thêm giống cây quả biến đổi gene ngạo nghễ như một thế lực mới lấn át  giống bản địa. Có nơi không còn bất cứ loại giống cũ nào nữa.

Xưa đi bộ ra đồng làm việc, giờ người ta đi xe máy nhanh và tiện hơn. Còn cày bừa thì đã có cày máy. Mưa nắng không còn là nỗi sợ vì có dự báo thời tiết từng ngày. Cầu tự giờ người ta lên đền làm sớ dâng lễ cho chắc ăn, hoặc lên chùa cúng dường xin đức lớn, không cần đi tắt qua làng làm cái cầu có vẻ phiền hà. Tình nghĩa làng quê cũng nhạt hơn xưa bởi những bức tường gạch xi măng che chắn cao lút đầu người. Ðất cũng khác dần đi, đất đổ mồ hôi nhiều hơn, vất vả nhiều hơn với con người để nhè thêm của cải...

Cầu quán mất, những cây gạo già nua dần đi theo, hoặc gãy đổ hoặc bị chặt phá. Những đa cổ thụ một thời hoành tráng, nếu còn thì giờ đây cỗi dần, thậm chí mục cành bục gốc cũng chẳng ai để ý tới. Giống như con trâu ngày xưa là đầu cơ nghiệp, chỉ già nua đau ốm ngã không dậy nổi mới được chính quyền đến xem xét khám nghiệm rồi cấp giấy “sát sinh” cho mổ thịt. Ai vô cớ thịt trâu, chính quyền biết thì ốm đòn! Giờ trâu chỉ để thịt mà không cần cấp phép. Quá khứ vượt mất mà không mấy người để ý tới vì người ta còn mải kiếm sống, làm giàu. Giờ đây, người ta mắt chăm chắm nhìn phía trước, mấy ai sống chậm.

Một diện mạo nông thôn khác hẳn nửa thế kỉ qua. Cùng với mọi biến đổi, việc từ thiện lấy đức giờ cũng không đơn sơ thật thà như làm cái cầu cái quán ngày xưa nữa.

Ngoái lại thời gian, không phải hoài cổ mà là để con cháu biết chúng ta từng có một nông thôn xưa nghèo nhưng vẫn có những góc nhân từ đôn hậu, đùm bọc. Ðó là tài sản tinh thần đáng quý một thời.

MỚI - NÓNG