Bâng khuâng cùng tiêng tiếc với Tinh hoa du ký

0:00 / 0:00
0:00
TP - Một ấn phẩm khá ấn tượng của NXB Thanh Niên trước kỷ niệm 96 năm Ngày Báo chí Việt Nam Tinh hoa du ký trên Tri Tân Tạp chí của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn và nhà báo Trần Bá Dung.

Tri tân - biết mới - ôn cố tri tân, Tạp chí văn hóa xuất bản hàng tuần vào thứ ba (số 1 ra ngày 3/6/1941 số cuối ra ngày 22/11/1945, khổ 20x26cm gồm 24 trang) do nhà văn hóa Nguyễn Tường Phượng chủ trương. Tri tân đã quy tụ hơn 300 tác giả tên tuổi của những nhà báo, nhà văn Việt những năm hai, ba mươi của thế kỷ trước!

Khoảng hơn 1.500 bài viết trong Tri Tân, tạm chia thành 8 đề mục lĩnh vực trong đó Du ký gồm 25 bài chính là nội dung của cuốn sách này. Ở đây, tôi không dám lạm bàn về thể tài du ký văn học - báo chí và giá trị văn hóa - văn học - báo chí mà Tri tân đề cập. Mà chỉ với tâm trạng của kẻ độc giả hậu sinh đương ngơ ngác cùng ngạc nhiên bởi những cụ đồ áo the khăn xếp túc nho đạo mạo lại là tác giả của những ký sự biên khảo, phóng sự đường xa bắt mắt như Nhật Nam Trịnh Như Tấu, Biệt Lam Trần Huy Bá, Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Trúc Khê Ngô Văn Triện, Tam Lang vv…

Như ký sự đường xa của nhà báo, nhà văn nhà biên khảo Nhật Nam Trịnh Như Tấu cuốn hút độc giả chạy mười mấy kỳ liền trên Tri Tân. Ông ký giả quê ở Phủ Lạng Thương, tác giả cuốn Trịnh Gia Chính Phả nổi tiếng in từ năm 1933 từng là Đại biểu Quốc hội Khóa I của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong phạm vi bài viết này, không có cơ hội được điểm hết các tác giả Du ký mà chỉ thoáng qua một vài dẫn dụ nhưng cũng đủ để bâng khuâng cùng là tiêng tiếc. Tâm trạng ấy có lẽ cũng là của lớp độc giả hậu sinh có dịp gẫm thêm về cái sức sống lâu bền không hề yểu mệnh lẫn đoản mệnh của thể loại phóng sự?

Công phu của các nhà sưu tầm hiện đại đương đưa tôi về sáng chủ nhật ngày 16/8/1942 ấy ở làng Nhị Khê Phủ Thường Tín Hà Đông. Hơn chục anh em trong Hội truyền bá quốc ngữ đã về chiêm bái đền thờ danh nhân Nguyễn Trãi. Có Nguyễn Thịnh là duệ tôn cụ Ức Trai và Vô Ngã là bút danh, tác giả của thiên phóng sự này.

Đền thờ gồm nhà đại bái và hậu cung làm theo kiểu chuôi vồ (bây giờ dân kiến trúc gọi là kiểu chữ Đinh-XB). Hai bên bục cao lát gạch hoa. Giữa là hương án trên có lư hương bằng đồng đen. Sau án là khoảng rộng để lấy chỗ làm tế. Hai bên cắm bát bửu. Bên cái án con cắm mấy thanh bảo kiếm, tả hữu là hai pho tượng ông phỗng bán thân mặc áo đỏ hai tay khoanh lại giơ ngang đầu.

Văn chỉ làng Nhị Khê gồm ba bệ gạnh chơ vơ trên khoảng đất vuông cỏ mọc xanh rì trước mặt là ao xung quanh là các thửa ruộng cao đã cấy mùa. Theo lời cố lão Nguyễn Tộc thì chỗ văn chỉ ấy là nơi Ức Trai tiên sinh dạy học thuở xưa. Sau này văn thân làng xã mới lập văn chỉ để kỷ công!

Ngôi mộ phát tích của họ Nguyễn nằm trong một thửa đất gọi là lăng rộng chừng nửa sào. Đó là mô đất hình con quy hai chân chầu vào lăng và một cái giá bút lồng nghiên. Xung quanh có voi ngựa, cờ, cung kiếm đủ cả lệ bộ xứng với uy danh của bực khai quốc công thần.

Dậy lên cảm giác bâng khuâng nếu cứ như sự tả của tác giả năm 1942 ấy thì đền thờ cụ Ức Trai nay đã đổi thay nhiều, nhiều lắm. Hình như chả còn đôi phỗng? Và khu lăng cùng ngôi mộ phát tích đã được tôn tạo lại? Nơi lưu dấu cụ thân sinh Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh ngồi dạy học trò trong đó có cậu con trai (Nguyễn Trãi sống với ông ngoại Trần Nguyên Đán ở Thăng Long. Năm lên 10 ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về quê Nhị Khê ở được cha rèn cặp) xưa là văn chỉ nay được tu tạo lại đến mức chả thể nhận ra nếu không có người giới thiệu?

Viết đến đây tôi đang hồi hộp nghĩ đến hơn 10 đại tự hoành phi cùng 9 cặp đối ngữ nghĩa khá uẩn súc mà tác giả biên ra phần nhiều xuất hiện sau thời điểm vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi không biết có được thể hiện đúng tinh thần cùng phép tắc sau đợt đại trùng tu di tích ở Nhị Khê năm 2020 không?

Có chi tiết cụ lý trưởng làng Nhị Khê dẫn cả bọn vào xem tranh cụ Khai quốc. Tác giả viết (lược ghi)

Đó là một bức tranh của họa sĩ Tàu vẽ lúc sinh thời cụ. Tranh tuy đã cũ đã bồi lại một lần song nét vẽ vẫn còn tinh vi cái màu thuốc trải bao tang thương vẫn còn tươi thắm! Bức tranh to lắm vì di tượng đây vẽ lớn bằng người thật. Hằng năm chỉ có mấy kỳ xuân thu tế và kỵ nhật thì thiên hạ mới được xem tranh. Theo nhời ông lý trưởng thì trước kia trên bức tranh này còn có cả hình tượng bốn vị gia tướng song lúc bồi lại thì phủ lấp đi nay chỉ còn di tượng cụ thôi!

Bâng khuâng cùng tiêng tiếc với Tinh hoa du ký ảnh 1

Tranh chân dung Nguyễn Trãi

Năm 1918 họa sĩ Chi, một tay vẽ phông nhà hát lớn Hà thành đã tự nguyện xin truyền lại một bức như tranh cũ nên đã được các chi phái Nguyễn Trãi tin cẩn trao cho việc đó! Cứ như nhời ông Lý nói với chúng tôi thì bức tranh mới này tuy bút pháp đã tinh nhưng không được linh hoạt sống động bằng bức tranh cổ mà chúng tôi hân hạnh được chiêm bái hôm nay!

Lại nối tiếp những lẩn thẩn cùng bâng khuâng… Họa sĩ tên Chi là ai? Họ gì? Thuộc gia tộc nào? Hẳn xuất thân từ gia thế có máu mặt ở Hà thành hồi ấy? Có lẽ phải tìm gặp vị họa sĩ nào còn sống cái thời Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ấy may ra có chút tung tích?

Lại nữa bức vẽ Nguyễn Trãi được chiêm ngắm ở đền thờ Nhị Khê như tác giả nói là của một họa sĩ Tàu? Tác giả là ai? Là người Tàu hay một họa sĩ cung đình Đại Việt nào? Được vẽ vào thời nào? May thay bức họa từ thuở thăm thẳm nào đó hiện vẫn còn giữ được!

Bâng khuâng cùng tiêng tiếc với Tinh hoa du ký ảnh 2

Sách Tinh hoa du ký…

Tôi tìm đến TS Nguyễn Xuân Diện đương làm việc ở Viện Hán Nôm. TS Diện có vợ là Trang Thanh Hiền là TS chuyên ngành Mỹ thuật.

Phu nhân TS chỉ vắn tắt thế này. Tranh lụa Việt Nam có thể đã có một lịch sử lâu đời, nhưng những tác phẩm vẽ trên chất liệu lụa cổ nhất hiện còn được lưu giữ đến ngày nay là ba tác phẩm chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan và Trịnh Đình Kiên.

Chúng có niên đại khá muộn khoảng thế kỷ XVIII – XIX thuộc giai đoạn nghệ thuật thời Hậu Lê. Đây cũng là giai đoạn mà các tranh chân dung đặc biệt phát triển, và thường do các hoạ sĩ cung đình vẽ. Các việc vẽ tranh như vậy vào triều Lê Trịnh đã được đặt thành những qui tắc chặt chẽ do Họa tất tượng cục (nơi lo các việc về mỹ thuật) đưa ra. Và không phải ai cũng được vẽ chân dung, chủ yếu là các quan lại, khanh hầu. Riêng bức Nguyễn Trãi hiện nay chưa xác định được niên đại cụ thể, nhưng có thể ông đã được người đời sau vẽ lại theo trí tưởng tượng, mặc dầu nhìn vào bức chân dung này người ta có thể dễ dàng hình dung ra một nhân vật trung hậu nhưng chịu nhiều oan khuất và dường như không hề có tính chất thần thánh hóa trên gương mặt nhân vật lịch sử này. Các tranh chân dung thời này đa phần được vẽ trên giấy dó cao cấp, một số rất ít được vẽ trên lụa. Ba tác phẩm trên nằm trong số những tranh đặc biệt đó. Chất liệu lụa được sử dụng để vẽ tranh cũng khác xa với loại lụa mà các hoạ sĩ trường Cao đẳng Đông Dương sau này. Chúng thường là loại lụa khá dày, và thường không cần bồi phần hậu. Điều này cũng giúp cho các họa phẩm dường như không hề bị mối hoặc bọ cắn trong suốt nhiều thế kỷ. Ngoài ra các họa sĩ cung đình vẫn sử dụng một số màu có tính chất truyền thống như các màu được lấy từ tự nhiên, mực nho, bột đá, chu sa… Một số màu là màu bột của Trung Quốc. Màu thường được pha với một loại dầu thực vật hoặc hồ nếp để tạo độ kết dính. Ngoài ra, các hoạ sĩ còn sử dụng các loại vàng bạc xay nhuyễn để tạo các họa tiết như trên trang phục ở tranh Nguyễn Trãi. Mặc dầu là ít ỏi, nhưng các tác phẩm này phần nào giúp chúng ta hiểu biết một cách sâu sắc hơn về một nền nghệ thuật trong quá khứ, mà ở đó tranh lụa đã có được một vị thế nhất định.

Định hỏi thêm TS Hiền rằng, bốn vị gia tướng chầu bên Nguyễn Trãi trong bức vẽ đầu tiên bị che lấp trong lần trùng tu (bồi lại tranh) ấy vào khoảng thời gian nào? Không phải ngẫu nhiên mà họ bị khuất lấp như thế? Nhưng có lẽ ngoài phạm vi nghiên cứu của TS?

Những trang về di tích Côn Sơn Kiếp Bạc chiếm kha khá trong những phóng sự du ký của Tri Tân.

Xin lược biên ra đây mấy chi tiết trong phóng sự của cụ Hoa Bằng.

… Hầu hết câu đối đều viết bằng Hán văn duy có câu sau này bằng tiếng Việt nên chúng tôi xin chép ra đây.

Uy tan giặc Bắc trận Sát Thát quân reo, một tay chống lại sơn hà quét bụi Tống rửa thù Nguyên nòi giống vẻ vang hồn lịch sử/

Ơn khắp miền Đông đền đại vương quốc tế, mảnh đá in còn sự nghiệp tiếng sóng Bạch Đằng vầng mây Kiếp khói hương phảng phất bóng anh hùng!

Có lẽ tiếng Việt mà tác giả nói ở đây là câu đối bằng chữ Nôm? Chứ khó mà bằng quốc ngữ hệ La tinh như bây giờ?

Khi đến chiêm bái đền Kiếp Bạc, chúng tôi vô cùng cảm động vì hai điều mắt thấy.

Một ông người Tàu, quê ở Hải Dương tên là Mã Tần Thắng ngưỡng mộ uy danh của Đức Thánh Trần có cung tiến một bức hoành đề bốn chữ Đức Uy Viễn Tướng từ năm Kỷ Mão đời Tự Đức. Đến năm Đinh Mão hiệu Bảo Đại con cháu ông Mã lại phóng to bốn chữ ấy trùng tu một bức hoàng lớn hơn cúng vào Đền.

Trước ban thờ ngoài Đền có đặt hai pho tượng đá người Chiêm. Một bằng chứng một vật kỷ niệm có tính cách lịch sử rằng đời Thịnh Trần dưới oai võ của Hưng Đạo Vương Chiêm thành đã hết lòng thần phục! (Hết trích)

Soát xét lại nhiều lần ký ức lẫn ảnh chụp những dịp chiêm bái Vạn Kiếp. Lại tỷ mẩn tra mấy lượt danh sách các hoành phi câu đối đền Kiếp Bạc thấy hình như mấy dẫn dụ trên đây mà cụ Hoa Bằng từng trưng trong Tri tân lâu nay đã không còn hiện diện ở Khu di tích này? Cẩn thận hơn, tôi có điện hỏi một nhân sĩ xứ Đông vốn am tường về đền đài miếu mạo xứ Hải Dương, ông hẹn cho một buổi…

Và bây giờ vẫn cảm giác tiêng tiếc lẫn bâng khuâng khi được hồi đáp rằng hoành phi ấy, vế đối kia cùng đôi tượng nọ không thấy có trong sách!

Hay đương lưu lạc phương nào?

MỚI - NÓNG