Hoa trắng mọc thành tán ở đầu một cán hoa dài 20-30cm hay hơn. Tán gồm 20-40 hoa có mo bao bọc, 3-4 lẩn ngắn hơn tán hoa; bao hoa màu trắng, gồm nhiều phiến thuôn mũi mác. Quả nang, hình trái xoan ngược chia ra 3 mảnh; 6 hạt nhỏ, màu đen.
Hoa tháng 7-8, quả tháng 8-9.
Bộ phận dùng: Hạt - Semen Alli Tuberosi, thường gọi là Cửu thái tử. Toàn cây cũng được dùng.
Nơi sống và thu hái: Cây của vùng Đông Á ôn đới, được trồng rộng rãi làm rau ăn ở miền núi, trung du và đồng bằng. Thường trồng bằng củ tách ở cây đã tàn lụi. Có thể trồng vào mùa xuân, hoặc thu đông là tốt nhất. Ta thường thu hái rau hẹ quanh năm, thường dùng tươi. Còn quả chín, phải chờ mùa thu đông, lấy về phơi khô, đập lấy hạt.
Thành phần hóa học: Trong cây hẹ có hợp chất sulfur, saponin, chất đắng và hoạt chất adorin có tác dụng kháng khuẩn và vitamin C.
Tính vị, tác dụng: Hạt có vị cay, ngọt, tính ấm, có tác dụng ôn trung, trợ vị khí, điều hoà tạng phủ, hạ nghịch khí, cố thận tinh, tán ứ huyết. Rau Hẹ có vị cay đắng chua mà sít, lại mạnh cho khí và thêm cho dương sự, lại cầm máu, vít tinh.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Hạt hẹ dùng chữa chứng mộng tinh,
Di tinh, đái ra huyết, lưng gối mỏi, tả và chứng đàn bà bạch đới và ỉa chảy.
Còn dùng chữa viêm tiền liệt tuyến.
Liều dùng 6-12g.
Cây hẹ dùng trị cơn hen suyễn nặng, đờm chặn khó thở, chứng ra mồ hôi trộm, sưng cổ họng khó nuốt, đổ máu cam, lỵ ra máu, viêm mũi, viêm tiền liệt tuyến.
Ngày dùng 20-30g giã nát, thêm nước, gạn uống. Dùng ngoài, lấy nước Hẹ nhỏ tai trị viêm tai giữa. Rễ Hẹ là vị thuốc tẩy giun kim rất nhẹ nhàng và hiệu nghiệm.
Đơn thuốc:
1. Cổ họng khó nuốt: Dùng 12-24g lá hẹ giã tươi lấy nước uống.
2. Yết hầu sưng đau: Hẹ toàn cây một nắm, muối một cục đâm vắt nước nuốt lần lần.
3. Viêm tai giữa: Giã hẹ tươi lấy nước nhỏ tai.
4. Côn trùng bò vào tai: Lá hẹ đâm vắt lấy nước nhỏ vào tai ít giọt, côn trùng sẽ bò ra.
5. Hen suyễn nguy cấp: Lá hẹ, một nắm, sắc uống.
6. Đổ máu cam, lỵ ra máu: Củ hoặc lá hẹ giã tươi lấy nước uống.
7. Ho trẻ em: Lá hẹ hấp với đường đặt trong nồi cơm hoặc đun cách thuỷ lấy nước cho uống.
8. Giun kim: Sắc lá Hẹ hoặc rễ Hẹ lấy nước uống.
9. Di tinh: Hẹ và gạo nếp, hai thứ đều nhau, hiệp chung nấu cháo nhừ, phơi sương một đêm, ăn lúc sáng sớm, ăn luôn một lúc. Hoặc dùng hạt Hẹ ăn mỗi ngày 20 hạt lúc đói với nước muối mặn mặn, hoặc chưng chín ăn.
10. Sản hậu chóng mặt bất tỉnh: Củ hẹ, hành tăm, đều 12g, đâm nát hòa ít giấm, để lên cục gạch nướng đỏ, xông hơi.