Những chuyện chưa biết về các kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam

Bài 7 : Khẩu thần công dưới nhà Đại tướng Chu Huy Mân

Bài 7 : Khẩu thần công dưới nhà Đại tướng Chu Huy Mân
Trong số tướng lĩnh Việt Nam, Đại tướng Chu Huy Mân có niềm tự hào riêng, ông là vị tướng duy nhất có “thâm niên” tuổi Đảng trùng với “thâm niên” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng bao nhiêu tuổi, tuổi Đảng của ông cũng bấy nhiêu năm. Chuyện ông phát hiện được khẩu thần công ở ngay dưới ngôi nhà mình cũng là cả một câu chuyện kỳ thú...

Từ cái đận, nhà văn Chu Lai cho ra đời tác phẩm “Hà Nội Phố”, người dân Hà Nội vẫn thường gọi phố Lý Nam Đế là “phố nhà binh”. Nhiều năm nay, Đại tướng Chu Huy Mân và gia đình đã sống với cái vui, cái buồn của con phố nhỏ này. Nhà ông ở số 36, Lý Nam Đế.

Năm 2001, gia đình ông đang sửa nhà để chuẩn bị cho lễ mừng thọ lần thứ 90 của vị tướng già. Buổi sáng ngày 25 tháng 5, tốp thợ đào đường ống cũ sau nhà, đến độ sâu 80 cm, phát hiện một vật gì rất rắn, họ lấy xà beng chọc xuống không nhầm nhò gì. Họ càng đào, càng thấy vật này khá dài bèn báo với gia đình.

Tốp thợ tiếp tục đào rộng ra. Đến khi chiếc hố đào rộng ra, chu vi dễ gần đến 2 mét, thì vị tướng già phát hiện đó là một khẩu thần công. “Tôi gọi anh tổ trưởng, tổ chức hơn 10 người dùng chão, ròng rọc đưa lên khỏi mặt đất rồi khênh ra đây, rửa sạch. Tôi loay hoay tìm trên súng có đặc điểm gì không? không thấy chữ gì, lâu quá, súng han gỉ, không còn nhìn ra chữ gì nữa...”, Đại tướng nhớ lại.

Người dân Lý Nam Đế biết chuyện ai cũng ngỡ ngàng: súng thần công của các bậc tiền bối

Bài 7 : Khẩu thần công dưới nhà Đại tướng Chu Huy Mân ảnh 1
Khẩu súng thần công của tướng Chu Huy Mân đang được trưng bày tại bảo tàng

để lại ngay dưới lòng đất, thuộc khuôn viên ngôi nhà của đại tướng, ở “phố nhà binh”. Phải chăng các bậc tiền bối đã ban cho đại tướng súng thần công này (?).

Còn con trai ông, dự định sẽ rửa sạch khẩu thần công, xây một bệ đá thật đẹp ở trước cửa rồi đặt khẩu thần công lên đó, để mọi người đến đây có thể chiêm ngưỡng nó.  “Nhưng buổi trưa ăn cơm xong, tôi bật ti vi xem bản tin thời sự của Đài truyền hình Việt Nam thấy Quốc hội đang thảo luận về Luật Di sản Văn hoá. Tôi nghĩ đây là tài sản quốc gia, mọi người dân phải có trách nhiệm đóng góp hiện vật cho bảo tàng, để giữ gìn, bảo quản được lâu dài, phát huy tác dụng trong công tác nghiên cứu và giáo dục. Tôi nghĩ ngay đến chuyện phải chuyển ngay khẩu súng thần công này đến Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) theo Luật di sản. Đầu giờ buổi chiều, tôi lập tức gọi điện cho anh Lê Mã Lương, Giám đốc bảo tàng, để anh ấy cử cán bộ tới chuyển về bảo tàng trưng bày”, đại tướng nói.

Chị Trần Thanh Hằng, nhân viên được Bảo tàng cử đến nhận khẩu súng thần công kể: “Chiều đó, ông đưa chúng tôi tới góc vườn, nơi khẩu súng thần công đã được đưa lên khỏi mặt đất và được rửa sạch bùn đất. 15 giờ 30 phút cùng ngày, khẩu súng thần công được cẩu lên xe chuyển về bảo tàng, được đặt trưng bày dưới chân kỳ đài Hà Nội.

Trước khi đưa ra trưng bày, Bảo tàng mời các chuyên gia về súng thần công của Bảo tàng Lịch sử và Viện Khảo cổ học đến xác định niên đại. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào hình dáng cấu tạo, chất liệu, cỡ nòng, độ dài đưa ra kết luận: Súng thần công được chế tạo từ thời Nguyễn có niên đại khoảng cuối nửa thế kỷ XIX. Khẩu thần công này có khả năng các cụ xưa dùng bảo vệ thành Hà Nội.Sau đó ít lâu, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Đại tướng Chu Huy Mân đến thăm Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã chụp ảnh lưu niệm cạnh khẩu thần công này.

Và chiếc đồng hồ Bác tặng

Bài 7 : Khẩu thần công dưới nhà Đại tướng Chu Huy Mân ảnh 2
 Tướng Chu Huy Mân (bên trái) tại đài quan sát chiến dịch F2 tháng 6/1972

Với vóc dáng đậm, nhanh nhẹn, vầng trán rộng, nước da hồng hào, nét mặt cương nghị, khó ai đoán được ông đã ở tuổi ngoài 90. ở ông toát lên một phẩm chất đặc biệt, một tính cách mạnh mẽ. Ngoài khẩu súng thần công, ông đã hiến tặng bảo tàng 5 kỷ vật quý giá của cuộc đời quân ngũ, cuộc đời của vị tướng cầm quân đánh giặc gan góc, lừng lẫy một thời ở chiến trường Khu 5.

Trong số kỷ vật đó có chiếc đồng hồ Wyler do Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng ông tháng 5 năm 1957. Hỏi vì sao Bác Hồ lại tặng đồng hồ cho ông, ông bảo: “Hồi đó ông Cụ chỉ nói ngắn gọn “Bác tặng đồng hồ cho chú vì chú có thành tích giúp Đảng, nhân dân cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp”. Mặt sau chiếc đồng hồ khắc chữ Hồ Chí Minh bằng chữ  Hán. Đây là một trong ba chiếc đồng hồ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho ba cán bộ quân đội có đóng góp công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp (Đại tướng Chu Huy Mân, đồng chí Nguyễn Chánh- Tổng cục trưởng Tổng cục Cán bộ và đồng chí Nguyễn Bá Phát- Cục trưởng Cục bờ biển).

Ông cười hiền hậu và nói với chúng tôi, đã có lúc nghĩ lại, tôi muốn đề nghị bảo tàng cho mượn lại chiếc đồng hồ, tôi sẽ đặt làm một chiếc hộp sơn son thếp vàng thật đẹp đặt trên bàn thờ gia đình, để tôi luôn được nhớ lại những kỷ niệm của những năm tháng đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi tôi đi theo Bác Hồ, gia đình sẽ gửi lại bảo tàng. “Nghĩ vậy, nhưng làm sao mình phạm Luật di sản văn hoá được.

Hiện vật bảo tàng là tài sản vô giá của quốc gia, của dân tộc, nó có những nguyên tắc riêng. Hiện vật được lưu giữ và trưng bày ở bảo tàng có tác dụng giáo dục lòng yêu nước và những tình cảm cách mạng trong sáng cho các thế hệ đặc biệt là thế hệ trẻ là tốt lắm”, ông tâm sự.


Vị Đại tướng duy nhất vào Đảng
từ năm 1930

Ông tên thật là Chu Văn Điều, quê ở xã Yên Lu, tổng Yên Trường, phủ   Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Nay là xã Hưng Hóa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Tham gia cách mạng từ năm 1929, được phân công làm Phó đội Tự vệ đỏ. Cuối năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông từng bị thực dân Pháp bắt giam lần thứ nhất vào tháng 6 năm 1931. Tháng 5 năm 1935, ông  đổi tên là Chu Huy Mân. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954, ông là Chính ủy Đại đoàn 316. Trưởng đoàn Cố vấn chuyên gia giúp Cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang, giữ cương vị Đoàn trưởng Đoàn 100 (Đoàn chuyên gia Quân sự Việt Nam  tại Lào).
Từ năm 1967 đến năm 1975, ông là Tư lệnh Quân khu 5, Phó bí thư Đảng ủy Quân khu, Chính ủy chiến dịch Huế- Đà Nẵng. Sau ngày giải phóng miền Nam, từ năm 1975 đến năm 1976, ông là Chính uỷ, kiêm Tư lệnh, Bí thư Đảng uỷ Quân khu 5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, năm 1976, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Trung ương bầu làm Uỷ viên Bộ Chính trị và được Bộ Chính trị giao trọng trách Phó bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (1977-1986), phụ trách công tác giúp Cách mạng Lào, Giám đốc Trường Nguyễn ái Quốc. Ông là đại biểu Quốc hội khoá II,VI,VII, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước khoá VII, được Quốc hội bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1981-1986), là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá III, IV, V, Uỷ viên Bộ Chính trị khoá IV,V.
Với những cống hiến to lớn đối với dân tộc, với những thành tích đặc biệt xuất sắc, ông được Đảng, Nhà nước trao tặng: Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất và nhiều huân chương cao quý khác. Đặc biệt ông là vị đại tướng duy nhất được Đảng, Nhà nước tặng huy hiệu 70
năm tuổi Đảng.

MỚI - NÓNG